Phân tích Truyện lạ nhà thuyền chài (Lê Thánh Tông)
- Mở bài:
– Lê Thánh Tông (1442 – 1497) là một vị vua tài đức vẹn toàn. Dưới thời Lê Thánh Tông, ông chỉnh đốn lại bộ máy nhà nước, coi trọng sự học hành, mở rộng thêm bờ cõi, đất nước ta đã đạt được sự toàn thịnh. Bên cạnh đó, ông còn là một nhà thơ, chủ soái của hội Tao Đàn, tập hợp 28 nhà thơ lớn đương thời. Hội Tao Đàn để lại nhiều bài thơ xướng hoạ, đẹp đẽ, đánh dấu 1 giai đoạn phát triển của thơ ca Việt Nam.
Văn bản Truyện lạ nhà thuyền chài là tác phẩm đặc sắc của vua Lê Thánh Tông. Dựa trên những câu chuyện kể dân gian, nhà vua đã ghi lại thành câu chuyện hoàn chỉnh,
Bố cục văn bản chia làm 4 phần.
– Phần 1 (Từ đầu đến phần con): Giới thiệu về gia cảnh đôi vợ chồng.
– Phần 2 (Tiếp theo đến…thế nào cũng mặc): quan niệm khác nhau về học hành giữa hai cha con.
– Phần 3 (Tiếp theo đến…vẻ gì khác cả): cuộc hội thoại giữa hai vợ chồng.
– Phần còn lại: Ngọa Vân từ biệt gia đình Thúc Ngư.
Nội dung truyện xoay quanh nhân vật chính là Thúc Ngữ – một người dân nghèo, đã lấy vợ là Ngọa Vân – người có dòng dõi hải tiên, bí ẩn và đầy tài năng. Hai vợ chồng luôn cố gắng làm lụm chăm chỉ để nuôi gia đình. Ngọa Vân giúp Thúc Ngư trở thành một ngư dân giàu có và thành công. Vào một ngày nọ, nước biển dâng cao, Ngọa Vân phải biến thành cá to, dài để che chắn ngọn nước. Nhờ đó mà gia đình tai qua nạn khỏi. Tuy nhiên, Ngọa Vân đã lộ thân phận bí ẩn của bản thân. Vậy nên, nàng đã rời xa Thúc Ngư và bố mẹ chồng để đảm bảo bình yên cho họ.
1. Nhân vật Thúc Ngư.
– Thúc Ngư không muốn học trong sách vở mà muốn học trong cuộc sống, chàng muốn đi đánh cá, muốn nhìn thấy vật thật hơn là chữ nghĩa.
– Cha Thúc Ngư lại muốn học con chữ, học làm người.
– Thúc Ngư là một ngư dân nghèo, nhưng anh ta luôn cố gắng học hỏi và làm việc chăm chỉ để cải thiện cuộc sống của mình và gia đình.
– Lời bàn của Sơn Nam Thúc ở cuối truyện có tác dụng hỗ trợ đọc hiểu văn bản Truyện lạ nhà thuyền chài vì lí giải sự kì lạ của câu chuyện, giúp em hiểu rõ câu chuyện, bài học tính triết lý câu chuyện mang lại, tóm tắt lại câu chuyện một cách ngắn gọn.
2. Nhân vật Ngọa Vân.
– Nhân vật Ngọa Vân trong truyện có tính cách rất đặc biệt:
+ Nàng là một người phụ nữ bí ẩn và tài năng, đã giúp Thúc Ngư trở thành một ngư dân giàu có và thành công.
+ Ngọa Vân được miêu tả là xinh đẹp và duyên dáng, với sắc đẹp tuyệt trần.
+ Ngọa Vân có lòng hiếu thảo và sẵn lòng hi sinh cho gia đình. Ví dụ, khi đối mặt với cơn bão biển khủng khiếp, nàng đã biến thành một con cá để bảo vệ gia đình.
→ Tính cách của Ngọa Vân thể hiện sự mạnh mẽ, thông minh và sẵn lòng hy sinh cho người thân yêu.
3. Những chi tiết kì ảo trong truyện
– Ngọa Vân biến thành một con cá để bảo vệ gia đình trong cơn bão biển khủng khiếp.
– Tác giả miêu tả Ngọa Vân là một người phụ nữ xinh đẹp và duyên dáng, xuất thân đặc biệt, hành động khác thường.
– Tác dụng:
+ Nhấn mạnh tính hy sinh và lòng hiếu thảo của Ngọa Vân.
+ Nhằm tạo nên hình ảnh quyến rũ và tuyệt trần của nhân vật.
→ Các chi tiết kì ảo này giúp thể hiện tính cách mạnh mẽ, thông minh và sẵn lòng hy sinh của Ngọa Vân, cũng như tạo nên không khí kỳ bí và lãng mạn trong văn bản.
– Ngoạ Vân có đức hi sinh, tính đảm đang gánh vác của người vợ, người mẹ, người phụ nữ trong cuộc sống. Tiếng khóc của Ngọa Vân, “một điểm rãi” gửi lại cho chồng trước lúc hoá rồng bay về phương tây bắc cũng thể hiện tình ân nghĩa sâu nặng của Ngọa Vân, của người vợ hiền thảo, thuỷ chung trong cuộc đời. Nhân vật Ngọa Vân mang bao phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
3. Nhận xét:
– Truyện viết bằng chữ Hán, kết hợp những yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo, hoang đường tạo sự hấp dẫn, ly kỳ cho câu chuyện, khơi gợi trí tưởng tượng của người đọc; ngôn ngữ giản dị, mộc mạc phù hợp với hoàn cảnh và tính cách nhân vật, gây ấn tượng và dễ hiểu cho người đọc; kết cấu hợp lý, chặt chẽ, kjt thúc có hậu, tạo ấn tượng sâu sắc, truyện đã ca ngợi tình yêu, lòng hi sinh, đề cao giá trị đạo đức, sự đoàn kết trong gia đình, truyền đạt thông điệp về sự kiên nhẫn và lòng yêu thương gia đình trong cuộc sống, khẳng định vẻ đẹp của con người lao động; qua đó thể hiện tấm lòng trân trọng của tác giả đối với những người lao động bình dị.
- Kết bài:
Với lời kể bình dị về cuộc sống của một gia đình thuyền chài trên biển, truyện tập trung vào cuộc sống của nhân vật chính là Thúc Ngư. Câu chuyện nhấn mạnh về tình yêu và sự đoàn kết trong gia đình, truyền đạt thông điệp về sự kiên nhẫn và lòng yêu thương gia đình trong cuộc sống. Qua câu chuyện, chúng ta thấy rằng việc học và chọn nghề đúng đắn có thể mang lại thành công và hạnh phúc trong cuộc sống.
Bài văn tham khảo:
Lê Thánh Tông là một vị vua tài đức vẹn toàn. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, đất nước toàn thịnh. Không những là một vị vua anh minh, Lê Thánh Tông còn là một nhà thơ, chủ soái của hội Tao Đàn. Chuyện lạ nhà thuyền chài là một trong những ghi chép của vua Lê Thánh Tông. Lấy đề tài từ câu chuyện kể dân gian, tác giả đã viết thành tác phẩm với ý nghĩa nhan văn sâu sắc.
“Chuyện lạ nhà thuyền chài” có bao yếu tố li kì rất hấp dẫn và thú vị. Một câu chuyện cổ viết cách chúng ta hơn năm thế kỉ mà thật giàu ý nghĩa. Nhân vật Thúc Ngư con nhà thuyền chài, bố mẹ gần 60 tuổi mới sinh ra cậu; đêm cậu sinh ra thì cha cậu lại đánh bắt được con cá to. Cái tên Thúc Ngư của cậu được đặt ra là vì thế. Mười lăm tuổi mà cậu không muốn học hành. Cậu hỏi bố: “Đi học là như thế nào? “, “Trong sách có cá không?”, “Lời nói và việc làm của Thánh hiện có đánh cá được không?”.
Ta cứ tưởng cậu ta ăn nói “rất ngu”và chí thích chơi bời, lêu lổng. Suốt ba năm trời, Thúc Ngư thường bỏ nhà đi chơi xa. Có lần đến hai ba hôm mới về nhà. Sau này, ta mới biết, cậu ta đi tìm vợ, tìm vợ tận “đảo ấp ” cách xa nhà cậu chừng một vạn dặm. Vợ là dòng dõi “hải tiên ”, con nhà giàu sang, rất xinh đẹp. Phải chăng qua nhân vật Thúc Ngư người viết truyện muốn nói về việc học: học trong sách vở thánh hiền có hay bằng học trong cuộc sống; có đi đó đây mới nhìn rộng biết nhiều. Câu tục ngữ: “Có người là có của” mà Thúc Ngư nhắc lại, câu tục ngữ: “Trai khôn tìm vợ, gái ngoan tìm chồng” của ông chài nói ra để khen con trai, và việc Thúc Ngư lấy được vợ đẹp một “hải tiên” nơi “đảo ấp” xa xôi chứa đựng bao ý nghĩa: phải có niềm tin trong cuộc sống, và “hạnh phúc là sự kiếm tìm”, đâu có chuyện cứ “há miệng chờ sung”. Việc Thúc Ngư lấy được vợ tiên nơi hải đảo còn thể hiện một triết lý của người xưa: có duyên mới nên vợ nên chồng; tình yêu trai gái là do “thiền duyên Qua nhân vật Thúc Ngư, mỗi người sẽ có cách cảm nhận riêng của mình. Có thể nói, nhân vật Thúc Ngư thật “dễ thương” nên mới lọt vào mắt xanh cô “hải tiên” chứ! Nhân vật “hải tiên” nơi “đảo ấp” tên là “Ngọa Vân”, nghĩa đen là áng mây nằm, áng mây đứng yên một chỗ. Nàng là con gái thứ 89 của một ông già mà “dưới cằm có hai cái râu rất dài”. Nàng có thuật “rút đường” rất kì diệu: đường xa vạn dặm sẽ được rút ngắn lại bằng gang tấc. Sau khi đã thành vợ của Thúc Ngư, hình như nhờ có nàng dâu mà ông chài “mỗi lần buông lưới là được toàn cá ngon, chốc lát đã đầy nửa thuyền, chiều đem về chợ bán, thường được giá đắt”. Đang sống hạnh phúc, nhưng trước cơn bão biển (sóng thần) kinh khủng, Ngọa Vân đã “giơ tay bắt quyết, hô to một tiếng “Biến! ‘Tức thì nàng biến thành một con cá to, dài độ ngàn thước, mình lớn ước tới ba mươi quầng…” ngăn chặn làn sóng dữ, bảo vệ sự bình yên cho gia đình nhà chồng. Cho dù có làm “thiên cơ tiết lộ” không thể cùng Thúc Ngư “chung mộng đẹp nữa” nhưng Ngọa Vân vẫn làm. Người xưa đã qua hành động phi thường chắn sóng dữ của Ngọa Vân để ca ngợi đức hi sinh, tính đảm đang gánh vác của người vợ, người mẹ, người phụ nữ trong cuộc sống. Tiếng khóc của Ngọa Vân, “một điểm rãi” gửi lại cho chồng trước lúc hoá rồng bay về phương tây bắc cũng thể hiện tình ân nghĩa sâu nặng của Ngọa Vân, của người vợ hiền thảo, thuỷ chung trong cuộc đời.
Nhân vật Ngọa Vân đã làm cho “Truyện lạ nhà thuyền chài” thêm “lạ” Nhưng nhân vật này rất đời, rất sống vì mang bao phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa nay. “Chuyện lạ nhà thuyền chài” còn có nhiều yếu tố li kì nữa. Những món ăn “ngon tuyệt phẩm, thơm lạ thường” mà cha Ngọa Vân thết đãi ông bà thông gia; hình ảnh “gã bán kinh” kéo thuyền, đẩy thuyền như bay trên biển, với “vảy rồng, mồm giải, mật thú, thân xà”, thoắt hiện, thoắt biến – đã đem đến cho người đọc bao cuốn hút, thú vị.