ong-gia-va-bien-ca

Phân tích ý nghĩa và giá trị truyện ngắn Ông già và biển cả của Hê-minh-uê

Phân tích ý nghĩa và giá trị truyện ngắn “Ông già và biển cả” của Hê-minh-uê.

  • Mở bài:

Hê-minh-uê (1988 – 1961) – là nhà văn lớn của nước Mĩ thế kỉ XX. Bằng những trang viết xuất sắc, Hê-minh-uê đã để lại dấu ấn sâu sắc trong văn xuôi hiện đại phương Tây, góp phần đổi mới lối viết truyện và tiểu thuyết. Với quan niệm “viết một áng văn xuôi đơn giản và trung thực về con người”, đề xướng và thực thi nguyên lý sang tác: “Tảng băng trôi”, Hê-minh-uê đã cho ra đời những tác phẩm bất hủ. Truyện ngắn “Ông già và biển cả” là tác phẩm kiệt xuất, thể hiện rõ nhất nguyên lý sáng tác của Hê-ming-uê

  • Thân bài:

Hê-minh-uê coi tác phẩm nghệ thuật như một “tảng bang trôi”. Phần nổi của ngôn từ không nhiều được viết một cách giản dị, hàm súc; phần chìm của nó rất lớn bởi đã gợi lên nhiều tầng ý nghĩa mà người đọc sẽ rút ra được tùy theo sự thể nghiệm và cảm hứng trước hình tượng. Thực thi nguyên lý ấy trong Ông già và biển cả, Hê-ming-uê đã sáng tạo ra một tác phẩm đa chiều, có nội dung triết lí sâu sắc.

Nhân vật trung tâm của tác phẩm là ông lão Xan-ti-a-gô làm nghề đánh cá. Đã 84 ngày qua ông không kiếm được con cá nào. Ngày thứ 85 có một con cá lớn mắc mồi. Con cá kéo ông và chiếc thuyền ra xa mãi, đến 3 ngày 2 đêm trên biển cả.

Ngày thứ ba, con cá bắt đầu lượn vòng. Dù rất mệt mỏi và choàng váng ông lão vẫn cố kéo nó vào gần hơn sau nhiều vòng lượn. Gần như đã kiệt sức, song ông cũng kìm được nó gần thuyền và phóng lao vào tim giết chết con cá.

Con cá kiếm quá to, dài hơn cả chiếc thuyền nên không thể đưa nó lên thuyền. Ông vô cùng vất vả buộc nó vào mạn thuyền và giương buồm về đất liền với suy nghĩ con cá sẽ là vận may cho mình. Không còn lương thực, vừa đói vừa khát, ông phải ăn tôm sống, uống nước một cách dè sẻn, và luôn tự động viên mình. Máu con cá kiếm loang ra đại dương, khoảng một tiếng sau, con cá mập đầu tiên lao tới.

Ông phải đơn độc chiến đấu với đàn cá mập để bảo vệ thành quả lao động của mình. Nhưng đàn cá mập kéo đến càng lúc càng đông, chúng ăn hết thịt con cá kiếm. Cuối cùng, khi ông già mệt mỏi rã rời vào đến bờ, con cá kiếm chỉ còn trơ bộ xương.

1. Ý nghĩa nhan đề “Ông già và biển cả”.

Ông già và biển cả gợi sự đối kháng quyết liệt. “Ông già” là biểu tượng của sự già yếu và cô độc của con người nhỏ bé, còn “biển cả” là biểu tượng của sự hung dữ, rộng lớn vô bờ của đại dương. Bằng sức lực của lòng tin, sự khôn ngoan, sáng tạo cộng với lòng đam mê và kiên trì phi thường, cuối cùng chiến thắng thuộc về “Ông già”.

Đặt tên cho tác phẩm là “Ông già và biển cả”, nhà văn Hê-ming-uê muốn đề cao sức mạnh, khát vọng chiến thắng của con người.

2. Ý nghĩa hình tượng con cá kiếm.

Con cá kiếm có sức mạnh phi thường và rất khôn ngoan. So với ông lão, nó tỏ ra vượt trội, khó mà khuất phục. Con cá kiếm được miêu tả là rất lớn và rất đẹp. nó kiêu hùng, bất khuất giữa đại dương, là ước mơ khuất phục của người đi biển.

Hình ảnh con cá kiếm mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Nó là biểu tượng của thiên nhiên vừa hiền hòa vừa hung dữ, đáng sợ. Nó cũng là biểu tượng ước mơ, khát vọng chiến đấu và chinh phục của con người. Con cá kiếm vừa to vừa đẹp ấy là biểu tượng cho những chông gai, thử thách trong cuộc đời. Cũng như đại dương, cuộc sống không bao giờ là bằng phẳng. Muốn là người chiến thắng, muốn tồn tại thì phải chiến đấu. Thử thách càng lớn, chiến thắng càng thêm ý nghĩa.

3. Hình tượng ông lão đánh cá – đỉnh cao nghệ thuật trong tác phẩm.

Ông là một người đánh cá rất lành nghề. ở ông lão  luôn có khát vọng cao đẹp. Ông luôn muốn một lần trong đời săn đuổi con cá lớn nhất, đẹp nhất.

Ông lão là người có niềm tin mãnh liệt vào bản thân. Chưa bao giờ ông chịu khuất phục trước đại dương. Ở ông luôn tồn tại một ý chí và nghị lực phi thường.

Ông lão Xan-ti-a-gô chính là biểu tượng đẹp đẽ về CON NGƯỜI: khát vọng, tin tưởng và không ngừng chiến đấu để chiến thắng.

Qua hình tượng ông lão đánh cá, tác giả đề cao sức mạnh của con người: trong cuộc đấu (ông lão và con cá kiếm đều dũng cảm, mưu trí, cao thượng nhưng chiến thắng cuối cùng vẫn thuộc về con người). Nó thể hiện niềm tin vào nghị lực, niềm tự hào về con người: “Con người có thể bị hủy diệt nhưng không thể bị đánh bại”.

Chính điểm đó là sự biểu hiện sâu sắc nguyên lí “Tảng băng trôi” trong tác phẩm Ông già và biển cả. Phần nổi của tảng băng, tác giả kể lại truyện ba ngày hai đêm ra khơi đánh cá của ông lão Xan-ti-a-gô. Trong khung cảnh mênh mông trời biển, chỉ có một mình ông lão, khi chuyện trò với mây nước…khi đuổi theo con cá lớn, khi đương đầu với đàn cá mập đang xông vào xâu xé con cá kiếm của lão, để rốt cuộc kéo vào bờ con cá chỉ còn trơ xương. Phần chìm của tảng băng, tác giả biểu hiện khát vọng tìm kiếm con cá lớn nhất, đẹp nhất đời của ông lão.

Ông lão Xan-ti-a-gô hay cũng chính là hành trình nhọc nhằn và dũng cảm của người lao động trong một xã hội vô tình. Đấy là thể nghiệm về thành công và thất bại của người nghệ sĩ đơn độc khi theo đuổi ước mơ sáng tạo, rồi trình bày nó trước mắt người đời. Cuộc chiến đấu kinh hoàng và đầy hiểm nguy của ông lão thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa con người và thiên nhiên. Thiên nhiên dữ dội nhưng phải chiến thắng nó mới có thể lấy được những thành quả lớn lao. Nhìn vào hình ảnh con cá kiếm khổng lồ khi đến bờ chỉ còn trơ bộ xương nhưng ông lão đã chiến thắng.

Với lối kể chuyện độc đáo, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời kể với văn miêu tả cảnh vật, đối thoại và độc thoại nội tâm, Hê-ming-uê thực sự đã mang đến cho người đọc những trang viết xuất sắc. Cộng với ý nghĩa hàm ẩn của hình tượng và tính đa nghĩa của ngôn từ càng làm cho tác phẩm lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối truyện. Ông già và biển” cả chính là biểu hiện nguyên lí sáng tác: tác phẩm nghệ thuật như một “tảng băng trôi”, một nguyên lý đúng đắn và mạnh mẽ mà Hê-ming-uê đã cống hiến cho cuộc đời này.

  • Kết bài:

Khép lại câu chuyện dài cũng là khép lại một hành trình. Ông lão nằm vật trên bãi biển, tay chân giang ra như tượng chúa là biểu hiện của sự thỏa mãn, của chiến thắng vẻ vang. Thế nhưng, người đọc nhớ mãi hình ảnh ông lão đánh cá đơn độc, dũng cảm săn đuổi con cá lớn nhất đời. Đó chính là một biểu tượng về vẻ đẹp của ước mơ và hành trình gian khổ của con người để biến ước mơ thành hiện thực. Sự chuyển hóa từ bức tranh với những nét trần trụi, chân thực, giản dị sang một lớp nghĩa hàm ẩn, rộng lớn, khiến cho người đọc không ngừng ngạc nhiên và thích thú là phong cách nổi bậc trong tác phẩm của Hê-ming-uê.


Bài văn tham khảo:

Cảm nhận truyện ngắn “Ông già và biển cả”.

Hê-minh-uê  là nhà văn Mỹ, được giải thưởng Nô-ben về văn học năm 1954. Vốn là phóng viên từng tham gia hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai, Hê-minh-uê để lại dấu ấn sâu sắc trên mảng đề tài: những cuộc săn bắt thú. “Giã từ vũ khí”, “Chuông nguyện hồn ai”, “Ông già và biển cả”,v.v… là những tác phẩm của Hê-minh-uê được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.

“Ông già và biển cả” là một truyện vừa kể lại chuyện ông chài Xan-chi-a-gô trong một chuyến ra khơi may mắn đã đánh bắt được một con cá kiếm khổng lồ. Khi thuyền đưa cá về bến thì bị đàn cá mập đuổi theo; lão đã dùng mái chèo, dùng chày chống trả dữ dội. Thuyền cập bến, lão thiếp đi trong căn lều nhỏ. Du khách xúm quanh con thuyền ngắm nhìn con cá kiếm chỉ còn lại bộ xương với cái đuôi tuyệt đẹp.

Đoạn trích có hai cảnh:

1. Cảnh con cá kiếm bị mắc câu vùng quẫy cố thoát trước khi bị phóng lao chết;

2. Cảnh lão chài giong thuyền đưa cá về bến.

Bước sang ngày thứ ba, khi mặt trời đang mọc thì con cá kiếm mắc câu đang lượn vòng vùng vẫy. Trước cái chết, con cá lượn vòng, làm căng sợi dây câu; con cá “quay tròn” tạo nên những “vòng tròn rất lớn”. Xan-chi-a-gô phải “dùng cả hai tay, lắc người, dốc hết lực của cả cơ thể, của chân trụ ra mà kéo”. Có lúc lão “phải dốc sức ra mà níu”, quyết “khuất phục” con mồi. Hai giờ sau, khi con cá “chậm rãi lượn vòng”, các vòng tròn lượn của nó “đã hẹp hơn nhiều”, con cá đang ngoi dần lên trong lúc bơi, thì lão chài “mồ hôi ướt đẫm… mệt thấu xương”. Mọi cái giá của lao động đối với người câu cá trên biển cả, lúc này, lão chài mới thật thấm thía: hoa mắt, mồ hôi xát muối vào mắt và trán, chóng mặt, choáng váng… “khiến lão sợ”. Lão muốn đọc một trăm lần kinh lạy Cha và một trăm lần kinh Mừng Đức Mẹ để cầu mong “Chúa giúp… chịu đựng”.

Khi con cá “quật đột ngột” làm cho sợi dây nẩy mạnh, hình như nó đau quá “cuồng lên”, lão chài bèn vốc ít nước biển vỗ lên đầu mình, rồi tì gối vào mũi thuyền, quàng sợi dây lên lưng, lão tự nhủ mình “đứng dậy chiến đấu”. Biển dậy sóng, gió mậu dịch nổi lên. Con cá lượn vòng, lúc ở mũi thuyền, lúc ở đuôi thuyền, mãi đến vòng thứ ba, lần đầu tiên lão nhìn thấy con cá. Thoạt tiên thấy “một cái bóng đen”,… lão thắc mắc hỏi: “Nó không thể lớn như thế được”. Nhưng khi con cá trồi lên, lão ngạc nhiên thấy: “Cái đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẫm”. Khi nó lặn xuống còn mấp mé mặt nước, ông chài chăm chú nhìn “thân hình đồ sộ và những sọc màu tía trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ vây to sụ bên sườn xoè rộng”.

Cuộc đấu giữa người và cá cứ diễn ra giằng co mãi. Cá mỗi lúc một đuối sức dần, nhưng vẫn cố vùng vẫy. Lão chài “toát mồ hôi đầm đìa”, tự động viên mình: “Hãy bình tĩnh và giữ sức, lão già ạ”. Nhìn thấy lưng con cá đã nhô lên, nhìn thấy cái đuôi đồ sộ cử động, con cá “khẽ nghiêng mình”, lão vừa ra sức kéo con cá vào gần thuyền vừa nói: “Ta đã di chuyển được nó… Ta đã di chuyển được nó rồi”. Một mình giữa biển cả mênh mông, như muốn xua đi nỗi cô đơn, lão “tâm sự” với tay, với đầu của mình: “Kéo đi, tay ơi… Hãy đứng vững, đôi chân kia. Tỉnh táo vì tao, đầu à. Hãy tỉnh táo vì tao. Bọn mày chưa bao giờ bại trận. Lần này ta sẽ lật được nó”.

Con cá kiếm không chỉ là “đối tượng” săn bắt, không chỉ là “đối thủ” giằng co, mà còn là “bạn”, “người anh em” đối với lão chài. Trước lúc phóng lao, khi miệng “khô khốc”, mệt nhoài, khi đã “đuối sức”, lão nói với con cá kiếm bằng tất cả tâm tình: “Mày đang giết tao, cá à… Tao chưa bao giờ thấy bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ. Hãy đến và giết ta đi. Ta không quan tâm chuyện ai giết ai”…

Cái gì đến thì nhất định sẽ đến. Con cá kiếm mỗi giờ một đuối sức dần. Lúc thì nó “rướn thẳng mình”, lúc thì nó “chầm chậm bơi xa”, cái đuôi đồ sộ “lắc lư trong không trung”, lúc thì nó “bơi nghiêng”, mõm gần chạm tới mạn thuyền trong “cơn hấp hối”. Lão chài buông sợi dây xuống, giẫm chân giữ, nhấc cao ngọn lao, vận hết sức bình sinh phóng lao xuống sườn con cá, ngay sau cái ngực đồ sộ của nó. Con cá kiếm bị trúng lao “rơi sầm xuống làm nước bắn tung trùm lên cả ông lão và con thuyền”. Đôi tay lão chài “xây xát”; còn con cá “nằm ngửa phơi cái bụng ánh bạc của nó lên trời”. Biển đổi màu “bởi máu đỏ loang từ tim cá”, làn máu đen sẫm loang ra trong làn nước biếc sâu hơn ngàn thước, tựa đám mây.Trên mặt biển, “con cá trắng bạc và thẳng đơ và bồng bềnh theo sóng”.

Thành quả lao động đã nắm trong tay, trận đấu đã kết thúc, khi mặt trời đã xế trưa. Khát, đói và mệt rã rời. Lão chài phải lấy dây và thòng lọng buộc cá vào cái mấu đằng mũi thuyền, chuẩn bị dựng cột, giong thuyền trở về. Lão say sưa ngắm con cá kiếm: “Da cá chuyển từ màu gốc, màu tía ánh bạc, sang màu trắng bạc và những cái sọc phô cùng màu tím nhạt… còn mắt nó dửng dưng như những tấm kính trong kính viễn vọng hay như một vị Thánh trong đám rước”.

Giờ đây, lão chài cảm thấy “khoẻ hơn”, đầu óc “tỉnh táo”. Lão nhìn con cá hơn nửa tấn, nhẩm số tiền bán cá sẽ thu được với giá ba mươi cend một pound. Lão vui sướng tự hào nghĩ “Di Maggio vĩ đại sẽ tự hào về ta hôm nay”. Còn có niềm vui sướng, hạnh phúc nào to lớn hơn niềm vui sướng hạnh phúc của lão chài khi chuẩn bị giong thuyền đưa cá về bến? Đó là cái giá và ý nghĩa của lao động.

Bữa cơm trưa của lão chài giữa biển khơi tuy đơn sơ mà ngon lành. Toàn đồ tươi sống của hương vị biển. Lão chài bắt vội được hơn mười con tôm nhỏ, lão “rứt đầu rồi nhai gọn cả vỏ lẫn đuôi”. Uống vài ngụm nước còn lại trong chai, lão cảm thấy thật dễ chịu. Lão nghĩ đến chuyện lấy nước mặn chữa lành đôi tay chảy máu. Nhìn đám mây tích và dải mây tơ, lão dong thuyền êm xuôi về bến trong làn gió nhẹ.

Nghệ thuật miêu tả và tự sự của Hê-minh-uê còn ít nhiều làm chúng ta “bỡ ngỡ” nhất là sự đan cài lời độc thoại, độc thoại nội tâm với lời kể. Qua đoạn trích, hình ảnh lão chài và con cá kiếm khổng lồ đã để lại cho ta nhiều ấn tượng sâu sắc. Lao động thật sự là bài ca của lòng kiên nhẫn và tinh thần dũng cảm. Lao động đem đến cho con người bao niềm vui giữa thiên nhiên và biển cả bao la. Chính cái giá của lao động mới làm cho chúng ta thấy rõ hơn ý nghĩa về hạnh phúc mà do bàn tay sáng tạo và lòng dũng cảm đem lại.

Các nhà lí luận thường nói đến “tảng băng trôi” – ý nghĩa hàm ẩn trong tác phẩm của Hê-minh-uê. “Ông già và biển cả” đem đến vinh dự giải thưởng Pu-lit-ze (1953) cho tác giả, nó là một ẩn dụ ca ngợi sức mạnh và lòng dũng cảm của con người trong lao động và khám phá thiên nhiên. Nó đã khơi dậy trong lòng mỗi chúng ta bao ý nghĩ tốt đẹp về con người và lao động, về con người và thiên nhiên.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang