tinh-ca-ban-mai-che-lan-vien-ngu-van-11-tap-2-canh-dieu

Tình ca ban mai (Chế Lan Viên) (Bài 6, Ngữ văn 11, tập 2, Cánh Diều)

Thực hành đọc hiểu:

Tình ca ban mai (Chế Lan Viên)
(Ngữ văn 11, tập 2, Cánh Diều)

Nội dung chính: Bài thơ Tình ca ban mai của Chế Lan Viên khắc họa nổi bật là những giai điệu vui tươi, ngọt ngào của bản tình ca về tình yêu, những âm điệu du dương, nhẹ nhàng và đằm thắm, đó là tình yêu của tuổi trẻ đầy rực rỡ, nồng cháy của một trái tim yêu thương, tha thiết và tin tưởng vào tình yêu của mình.

Trước khi đọc.

Câu 1 (trang 42, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Đọc trước bài thơ Tình ca ban mai và tìm hiểu thêm thông tin về nhà thơ Chế Lan Viên.

Trả lời:

– Nhà thơ Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh năm 1920, tại Cam Lộ, Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, Bình Định. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay “Điêu tàn”. Từ đây, tên tuổi của ông vụt sáng trên thi đàn Việt Nam.

– Năm 1939, Chế Lan Viên ra học tại Hà Nội, sau vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, Chế Lan Viên tham gia phong trào cách mạng tại Bình Định, Thừa Thiên – Huế. Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo “Văn học”. Ông từng là Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, là đại biểu Quốc hội các khóa IV, V, VI, VII; Ủy viên Ban Văn hóa – Giáo dục của Quốc hội.

– Trong cuộc đời sáng tác, nhà thơ Chế Lan Viên để lại nhiều tác phẩm giá trị ở cả thể loại thơ, văn, tiểu luận phê bình. Đáng chú ý là các tập thơ: “Điêu tàn”, “Ánh sáng và phù sa”, “Hoa ngày thường – Chim báo bão”, …

Câu 2 (trang 42, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Tìm đọc các bài thơ về tình yêu của Chế Lan Viên. Em có ấn tượng gì về những bài thơ ấy?

Trả lời:

– Các bài thơ: Hoa tháng ba, Nhớ, Tình ca ban mai, Lòng anh làm bến thu.

– Ấn tượng: Thơ tình Chế Lan Viên không giống thơ tình của Xuân Diệu. Tình yêu ở đây không có hò hẹn, không có “ngó trên tay điếu thuốc cháy lụi dần” của Hồ Dzếnh, không có kiểu “gặp em thơ thẩn bên vườn hạnh / hỏi mãi mà em chẳng trả lời” của Thái Can, lại càng không có kiểu yêu đương như các nhà thơ trẻ hiện đại. Thơ tình Chế Lan Viên có chút gì đó vừa của ca dao, của Nguyễn Trãi, vừa của Trần Tế Xương, của Tản Đà,… Thơ tình Chế Lan Viên làm nên một thế giới nghệ thuật riêng, trong đó thời gian và không gian được cá thể hóa, vĩnh cửu hóa, gắn với chủ thể trữ tình trong từng bài thơ.

Trong khi đọc.

Câu 1 (trang 43, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Cách tổ chức khổ thơ có gì đặc biệt?

Trả lời:

– Khổ thơ gồm 4 câu nhưng được chia thành hai cặp câu, giữa hai cặp câu trong khổ có cách xa hơn.

Câu 2 (trang 43, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Chú ý các từ chỉ thời gian trong bốn khổ thơ đầu.

Trả lời:

– Từ ngữ chỉ thời gian: chiều, mai, trưa, khuya, ban mai.

→ Rất nhiều các từ ngữ chỉ thời gian, những khoảng thời gian khác nhau trong một ngày.

Câu 3 (trang 43, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Chú ý sự lặp lại hình ảnh trong các dòng thơ số 8 và 16.

Trả lời:

– Dòng thơ số 8: Rải hạt vàng chi chít.

– Dòng thơ số 16: Mọc sao vàng chi chít.

→ Hình ảnh lặp lại: sao vàng mọc chi chít.

Sau khi đọc.

Câu 1 (trang 43, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Bài thơ có thể chia làm mấy phần? Vì sao?

Trả lời:

– Bài thơ có thể chia làm 3 phần như sau:

+ Bốn khổ thơ đầu: Đã thể hiện tầm quan trọng của nhân vật trữ tình em. Em đến mang lại sức sống mãnh liệt cho thiên nhiên đất trời, em về làm cho chim vườn bay hết, em ở khiến trời cũng trong xanh hơn.

+ Bốn khổ thơ sau: Bức tranh thiên nhiên cuộc sống ở khổ thơ này đã lấy cái phủ định để khẳng định, bổ sung, củng cố thêm vững vàng cho bài thơ.

+ Câu thơ cuối cùng: Miêu tả sự hạnh phúc khi em về.

Câu 2 (trang 43, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Hãy chỉ ra vai trò của một yếu tố tượng trưng đó trong việc thể hiện nội dung tác phẩm.

Trả lời:

+ Nhận diện: Trong bài thơ có rất nhiều yếu tố tượng trưng được sử dụng như lộc biếc, hạt vàng, ban mai, hoa em, sao vàng,…

+ Vai trò: Việc sử dụng những hình ảnh biểu tượng này giúp tăng tính biểu cảm và giúp cho bài thơ sinh động hơn.

Câu 3 (trang 44, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Những biến đổi của hình tượng “em” ở bốn khổ thơ đầu được so sánh với những khoảng thời gian trong một ngày và thiên nhiên. Phân tích ý nghĩa của cách biểu đạt này.

Trả lời:

– Hình tượng “em” là hình tượng xuyên suốt toàn bài thơ, trong đó, nổi bật trong bốn khổ thơ đầu. Những biến đổi của hình tượng “em” ở bốn khổ thơ đầu được so sánh với những khoảng thời gian trong một ngày và thiên nhiên như sau:

“Em đi như chiều đi,
Gọi chim vườn bay hết.”

+ Sự vận động không phải là của riêng em mà đã nhuốm cả sang cảnh vật. Em đi “như chiều đi”, “gọi chim vườn bay hết”. Em đi mang theo những ánh sáng le lói cuối cùng của ngày đi mất.

“Em về, tựa mai về,
Rừng non xanh lộc biếc”

+ Khác với lúc em đi, khi em về tựa như ngày mai tới, tựa như ánh sáng ngày mới đã dần quay trở lại. Khi em về, mọi sự sống cũng bắt đầu đâm chồi nảy nở, rừng non cũng phải trổ lộc xanh biếc, hồi sinh mọi thứ.

“Em ở, trời chưa ở,
Nắng sáng màu xanh che”

+ Dưới con mắt của người đang yêu, khi “em về” và khi“em ở” có lẽ là khoảng thời gian đẹp nhất và hạnh phúc nhất. Em chính là ánh sáng đẹp nhất, chiếu sáng cảnh vật và tâm hồn anh.

“Tình em như sao khuya
Rải hạt vàng chi chít”

+ Tình em như sao khuya, tuy chỉ là những ngôi sao nhỏ bé trên bầu trời nhưng luôn sáng mãi và vô tận, không bao giờ có thể đếm được. Tình yêu ấy nhiều đến mức chi chít, là những ngôi sao vàng sáng không bao giờ lụi tàn.

Câu 4 (trang 44, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Sức mạnh của tình yêu đôi lứa (“tình ta”) được thể hiện như thế nào trong khổ thơ 6, 7 và 8?

Trả lời:

– Nếu như ở bốn khổ thơ trước ta chỉ thấy xuất hiện của “em” và “tình em” thì với bốn khổ thơ sau, ta nhận thấy được sự chuyển biến rõ rệt khi tác giả đã nâng chuyện tình cảm của mình lên một bước cao hơn đó là “tình ta”. Giờ đây tình yêu song phương đã được hợp nhất, đã có đủ cả anh và em.

Câu 5 (trang 44, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Khổ thơ cuối có khác biệt gì với các khổ thơ trước đó? Ý nghĩa của sự khác biệt này?

Trả lời:

– Khổ thơ cuối rất khác biệt so với các khổ thơ trước đó:

+ Nếu các khổ thơ trước chỉ gồm hai câu thì ở khổ cuối chỉ có duy nhất một câu.

→ Mỗi khổ 2 dòng thơ thể hiện một cặp hình ảnh đối lập ở các thời điểm khác nhau trong ngày với những hình ảnh biểu tượng cho các cung bậc cảm xúc trong tình yêu của tác giả. Còn dòng thơ ở khổ cuối đã giúp cho cho chúng ta khẳng định thêm niềm tin và niềm hi vọng ở tình yêu.

Câu 6 (trang 44, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Em thấy thích nhất hình ảnh/ dòng thơ/ khổ thơ nào trong bài thơ? Vì sao?

Trả lời:

– Em thích nhất câu thơ:

“Em đi như chiều đi,
Gọi chim vườn bay hết”.

– Sự vận động không phải là của riêng em nữa mà đã nhuốm cả sang cảnh vật.

+ Em đi “như chiều đi” để “chim vườn bay hết”. Sự sống như đang mất dần, đang bị tàn lụi bởi em là quầng sáng duy nhất có thể tạo nên sự sống.

+ Em bước đi “đánh cắp” trong lòng anh niềm yêu và nỗi nhớ da diết.

+ Câu chữ như khắc khoải và như đong đầy niềm thương nhớ “Em đi – như chiều đi”.

+ Em là trung tâm của sự sống, vắng bóng em chỉ còn niềm cô đơn choáng ngợp tâm hồn, trong mỗi ánh nhìn của anh sự vật như không còn tồn tại.

→ Có thể nói ngay ở câu thơ đầu tiên vai trò và sức mạnh của bóng hình em đã hằn in trong tâm khảm của anh. Em đi thì chan chứa nỗi nhớ da diết đến thế, khi em về liệu anh có vui hơn?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang