tom-tat-truyen-rung-xa-nu-cua-nguyen-trung-thanh

Tóm tắt truyện Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.

Tóm tắt truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.

Tóm tắt 1:

Sau ba năm đi “lực lượng”, Tnú về thăm làng. Bé Heng gặp anh ở con nước lớn đẫn anh về. Con đường cũ, hai cái dốc, rừng lách chằng chịt hố chông, hầm chông, giàn thò sắc lạnh. Mặt trời chưa tắt thì anh về đến làng. Cụ Mết già làng và bà con dân làng reo lên mừng rỡ. Cụ Mết đưa anh về nhà ăn cơm. Từ nhà ưng vang lên một hồi, ba tiếng mõ dài, cả lũ làng cầm đuốc kéo tới nhà cụ Mết gặp Tnú. Có ông bà già. Nhiều trai tráng và lũ con gái. Đông nhất là lũ trẻ con. Có cả cô Dít, em gái Mai, nay là bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội. Ai cũng muốn ngồi gần anh Tnú. Dít thay mặt lũ làng xem giấy có chữ kí chỉ huy cho phép Tnú về thăm làng một đêm. Quanh bếp lửa rộn lên: ‘Tốt lắm rồi!” “Một đêm thôi, mai lại đi rồi, ít quá, tiếc quá”. Rồi cụ Mết kể lại cuộc đời Tnú cho lũ làng nghe. Tiếng nói rất trầm. “Anh Tnu đó, nó đi Giải phóng quân đánh giặc… Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Anh Xút bị giặc treo cổ, bà Nhan bị giặc chặt đầu, nó và em Mai đi vào rừng nuôi anh Quyết cán bộ. Anh dạy nó học chữ. Nó học chữ thì hay quên nhưng đi rừng làm liên lạc thì đầu nó sáng lạ lùng. Nó vượt thác, xé rừng mà, lọt tất cả vòng vây của giặc. Một lần Tnú vượt thác Đắc Nông thì bị giặc bắt, bị tra tấn, bị giặc đày đi Kông Tum. Ba năm sau, Tnú vượt ngục trốn về, lung đầy thương tích. Tnú đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi cho dân làng Xô Man trước khi anh tử thương. Tnú đi bộ lên núi Ngọc Linh đem vẻ một gùi đá mài. Đêm đêm làng Xô Man thức mài vũ khí. Thằng Dục chỉ huy đồn Đắc Hà đưa lũ ác ổn về vây ráp làng. Tiếng kêu khóc vang dậy. Cụ Mết và trai tráng lánh vào rừng, bí mật bám theo giặc. Bọn giặc đã giết chết mẹ con Mai. Tay không, nhảy ra cứu vợ con, Tnú bị giặc bắt. Chúng lấy nhựa xà nu đốt cháy mười ngón tay anh. Cụ Mết và 10 thanh niên từ rừng xông ra, dùng mác, và rựa chcm chết tất cả 10 tên ác ôn. Thằng Dục ác ôn và xác lũ lính ngổn ngang quanh đống lửa xà nu trên nhà ưng. Từ đó, làng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng. Sau đó, Tnú ra đi tìm cách mạng…”

Cụ Mết ngừng kể, rồi hỏi Tnú đã giết được mấy thằng Diệm, mấy thằng Mĩ rồi? Anh kể chuyện đánh đồn, xông xuống hầm ngầm dùng tay bóp chết thằng chỉ huy… thằng Dục, “đúng chớ… chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục!”. Mưa rơi nặng hạt. Không ai nhận thấy đêm đã khuya. Sáng hôm sau cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường. Ba người đứng nhìn những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời…


Tóm tắt 2:

Tóm tắt nội dung truyện ngắn “Rừng xà nu”

Sau ba năm tham gia lực lượng cách mạng, Tnú được về thăm làng. Trong đêm ấy, cụ Mết kể lại cho dân làng nghe về câu chuyện của Tnú. Tnú mồ côi từ nhỏ, được dân làng nuôi lớn và sớm tiếp nối tinh thần cách mạng. Tnú tham gia nuôi giấu chiến sĩ cách mạng và làm liên lạc. Tnú vốn là một cậu bé thông minh, can đảm và gan dạ: “chọn nơi rừng khó đi, nơi sông khó qua” để tránh kẻ thù. Lúc bị bắt dám thách thức quân giặc “nuốt vội lá thư và chỉ tay vào bụng mình”. Tnú bị bắt, bị tra tấn dã man nhưng nhất định không khai. Sau khi ra tù, Tnú về làng cưới Mai và cùng dân làng chuẩn bị chiến đấu. Nghe tin đó, thằng Dục – tay sai của chính quyền Mỹ – Diệm đưa lính đến đàn áp. Không bắt được Tnú chúng đem vợ con anh ra đánh đập đến hết. Tnú đau xót xông ra nhưng không cứu được vợ con mà còn bị chúng thiêu đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa cây xà nu. Trong khi đó cụ Mết cùng dân làng mang vũ khí cất giấu trong rừng trở về và chiến đấu thắng lợi. Tnú gia nhập giải phóng quân và chiến đấu dũng cảm nên được cấp phép về thăm làng. Cụ Mết tự hào kể về anh cũng như nhắc nhở bài học xương máu: ”Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Cuối truyện là hình ảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú về đơn vị, xa xa là những rừng xà nu, đồi xà nu bạt ngàn, chạy tít tắp đến chân trời.


Tham khảo:

Dàn bài phân tích truyện ngắn “RỪNG XÀ NU” của nhà văn Nguyễn Trung Thành.

  • Mở bài:

– Nguyễn Trung Thành là một trong những cây bút tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam thế kỷ 20. Ông có hiểu biết sâu sắc, gắn bó mật thiết với cảnh vật và con người Tây Nguyên. Do đó, những thành công lớn nhất với sự nghiệp của ông cũng gắn bó với mảnh đất này. Văn Nguyên Ngọc mang đậm âm hưởng sử thi của núi rừng Tây Nguyên. Ở đó, chất thơ hoà quyện với độ hoành tráng của núi rừng, của những con người bất khuất, kiên trung với quê hương, đất nước. Sức sống bất diệt, khả năng trỗi dậy vô tận của con người, sự sống luôn được đề cao trong tác phẩm của ông. Trong đó truyện ngắn “Rừng xà nu” là tác phẩm tiêu biểu nhất cho khuynh hướng sáng tác này.

  • Thân bài:

Truyện ngắn “Rừng xà nu” được viết năm 1965 khi giặc Mĩ đổ quân ào ạt vào bãi biển Chu Lai – Quảng Nam. Truyện được đăng trên tạp chí “Văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung Bộ” sau đó được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”.

 Mở đầu truyện là cảnh rừng xà nu bạt ngàn đứng trong “tầm đại bác ”của giặc đang ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng Xô-man. Sau 3 năm đi lực lượng, Tnú được cấp trên cho phép về thăm làng một đêm. Bé Heng nay đã trở thành một giao liên chững chạc, nhanh nhẹn. Dít nay đã trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội vững vàng. Đêm hôm đó, cụ Mết đã kể cho cả dân làng nghe về cuộc đời Tnú. Hồi đó Mĩ diệm khủng bố gắt gao, được anh Quyết dìu dắt Tnú cùng Mai tham gia nuôi giấu cán bộ cách mạng từ nhỏ. Giặc bắt anh, sau 3 năm anh lại vượt ngục Kon Tum trở về. Lúc này anh Quyết đã hi sinh, Tnú lấy Mai. Anh tiếp tục cùng dân làng mài giáo mác chuẩn bị chiến đấu. Giặc nghe tin, chúng về làng càn quét, khủng bố. Kẻ thù bắt vợ con anh, tra tấn tàn bạo ngay trước mắt anh. Căm hờn cháy bỏng, anh đã nhảy xổ ra giữa bọn lính nhưng cũng không cứu được mẹ con Mai. Giặc bắt anh, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay anh. Cụ Mết cùng thanh niên trong làng đã  nổi dậy giết sạch bọn lính cứu Tnú. Sau đó anh gia nhập lực lượng quân giải phóng. Câu chuyện kết thúc bằng cảnh cụ Mết  và Dít tiễn Tnú trở lại đơn vị, trước mắt họ là những cánh rừng xà nu nối tiếp đến tận chân trời.

1. Ý nghĩa nhan đề:

– Nhan đề là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi nguồn từ hình ảnh này.

“Rừng xà nu” là hình ảnh trung tâm có vẻ đẹp riêng, gắn bó mật thiết với cuộc sống vật chất và tinh thần của người dân Tây Nguyên, biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của con người Tây Nguyên: Sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất, khao khát tự do.

– Nhan đề còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi cho truyện ngắn.

2. Hình tượng cây xà nu:

* Vị trí xuất hiện: Nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so sánh với các nhân vật ở trong truyện.

* Nghĩa tả thực: Đây là một loài cây có thật ở vùng đất Tây Nguyên.

* Nghĩa biểu tượng:

– Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên: Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân làng Xô-man. Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xô-man. Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xôman đến mức nó đã thấm sâu vào nếp suy nghĩ và cảm xúc của họ. Cây xà nu đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của mảnh đất này.

– Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng:

+ Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù  tượng trưng cho những mất mát, đau thương vô bờ mà dân làng Xôman nói riêng (anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai…) và đồng bào Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc chiến đấu.

+ Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lý tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến.

+ Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây Nguyên (cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, Heng) đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.

+ Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù.

* Nghệ thuật miêu tả:

+ Kết hợp miêu tả cụ thể lẫn khái quát, khi dựng lên hình ảnh cả rừng xà nu, khi đặc tả cận cảnh một số cây.

+ Phối hợp cảm nhận nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng tràn đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh giữa ánh nắng.

+ Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh đối chiếu thường xuyên với con người.

+ Hình ảnh cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rồi kết thúc tác phẩm lại hiện ra cánh rừng xà nu bạt ngàn. Đây là một kết cấu vòng tròn. Kết cấu ấy cho phép ta nghĩ: Cây xà nu không chỉ là tượng trưng cho một làng Xô Man nhỏ bé hay cho một vùng núi rừng Tây Nguyên. Có thể đó còn là biểu tượng của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong những tháng năm chống đế quốc Mĩ.

3. Hình tượng nhân vật Tnú:

– Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, mưu trí:

+ Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. Tnú vẫn cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ.

+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.

+ Khi đi liên lạc không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi”, không lội chỗ nước êm mà “lựa chỗ thác mạnh vượt băng băng như con cá kình”. Bởi theo Tnú những chỗ nguy hiểm giặc “không ngờ” đến.

+ Bị giặc phục kích bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi bọn giặc kéo về làng, bắt Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói “cộng sản ở đây này”.

– Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng:

+ Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của cấp trên mới về thăm.

+ Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng trung thành tuyệt đối: Khi bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt gan ruột nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh luôn tâm niệm lời dạy của anh Quyết: “người cộng sản không thèm kêu van”.

– Một trái tim yêu thương và sục sôi lòng căm thù giặc:

+ Tnú là một người sống rất nghĩa tình: Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con. Động lực ghê gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa căm thù. Tnú là con người tình nghĩa với buôn làng: Anh lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của người dân làng Xô man.

 + Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba mối thù: Thù của bản thân; Thù của gia đình; Thù của buôn làng.

– Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ: “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.

+ Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa giác ngộ chân lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng anh vẫn thất bại đau đớn khi không có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân.

+ Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xô man đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự chứng minh cho chân lí: Phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng.

+ Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách mạng của làng Xôman nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung.

–  Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời:

+ Khi lành lặn: Đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho; bàn tay cầm đá  đập vào đầu mình để tự trừng phạt vì học hay quên chữ …

+ Khi bị thương: Đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm lòng căm hận sôi trào “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. …

  • Kết bài:

– Với kết cấu truyện lồng trong truyện, đầu cuối tương ứng đặc sắc, ngôn ngữ đậm chất sử thi, nhưng cũng mộc mạc giản dị, xây dựng hình tượng,… “Rừng xà nu” xứng đáng là một khúc sử thi văn xuôi hiện đại tái hiện vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.


* Tham khảo:

Phân tích chi tiết truyện ngắn “RỪNG XÀ NU” (Nguyễn Trung Thành)

Nguyễn Trung Thành là nhà văn có sự gắn bó mật thiết với Tây Nguyên trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Những hiểu biết và tình yêu sâu sắc với mảnh đất Tây Nguyên, với thiên nhiên và con người Tây Nguyên đã giúp Nguyễn Trung Thành trở thành cây bút văn xuôi tiêu biểu với những tác phẩm viết hay nhất về miền rừng núi xa xôi này. Những sáng tác của Nguyễn Trung Thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thường thể hiển khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đậm nét. Với nguồn cảm hứng chủ đạo là tình yêu quê hương đất nước, nhà văn luôn muốn đem đến cho tác phẩm của mình những giá trị khái quát lớn lao về lịch sử, nhân dân, đất nước, cách mạng…

Truyện ngắn “Rừng xà nu” được sáng tác đầu 1965 ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung Bộ, trong không khí sôi sục của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tác phẩm tái hiện không khí đen tối, nghẹt thở trong một thời kỳ lịch sử của cách mạng miền Nam (1955 – 1959). Từ cuộc chiến tranh một phía tàn bạo của kẻ thù, mâu thuẫn giữa Mỹ – Ngụy với các tầng lớp nhân dân bị dồn nén tới cao độ khiến sự bùng nổ của phong trào Đồng khởi là tất yếu. Từ sự nổi dậy của một buôn làng người Tây Nguyên, Nguyễn Trung Thành đã phản ánh khí thế hào hùng trong phong trào Đồng khởi khắp miền Nam đầu những năm 60, cùng đồng thời khái quát những chân lý lịch sử, lý giải sâu sắc và thuyết phục con đường giải phóng của nhân dân, đất nước.

Truyện ngắn Rừng xà nu kể về cuộc đời của Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man. Làng Xô Man theo Đảng, theo cách mạng từ những năm tháng đen tối, khó khăn nhất. Được sự giác ngộ của cán bộ cách mạng, của anh Quyết, dân làng âm thầm chuẩn bị vũ khí cho cuộc nổi dậy. Người dân Xô Man từ thanh niên, người già đến trẻ con, bất chấp sự khủng bố tàn bạo của kẻ thù vẫn ngày đêm đi tiếp tế cho cán bộ. Khi còn là một cậu bé, Tnú đã cùng Mai vào rừng tiếp tế cho anh Quyết, được anh dạy học chữ, dạy làm cách mạng. Tnú bị giặc bắt, bị tra tấn dã man vẫn không khai ra cán bộ. Sau khi ra tù, Tnú trở về làng, cùng với Mai thành vợ thành chồng, có một đứa con. Anh Quyết đã hy sinh, Tnú thay anh lãnh đạo dân làng đánh giặc. Bọn lính ác ôn do thằng Dục cầm đầu đã về làng Xô Man, lùng sục, bắt bớ, tra tấn dân làng. Già làng, thanh niên trai tráng cùng Tnú rút lên rừng. Để dụ bắt Tnú, kẻ thù bắt tra tấn vợ và con Tnú đến chết, Tnú tay không lao ra cứu vợ con cũng bị bắt trói, giặc đốt cháy mười đầu ngón tay anh bằng giẻ tẩm nhựa xà nu. Cụ Mết lãnh đạo dân làng tự vũ trang giáo mác, rìu, rựa… nổi dậy giết chết toàn bộ tiểu đội ác ôn của thằng Dục cứu sống Tnú. Tnú từ biệt dân làng đi bộ đội giải phóng. Ba năm sau, anh về thăm làng, lúc này em gái của Mai là Dít đã trưởng thành, lại tiếp tục làm cán bộ cách mạng. Cụ Mết cùng dân làng đón anh ở nhà rông, suốt đêm ấy cả làng thức nghe cụ Mết kể về cuộc đời Tnú, về cuộc nổi dậy của làng Xô Man cách đó ba năm. Bên bếp lửa rừng rực cháy, cụ Mết đã rút ra bài học cho cả làng, cho con cháu: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”. Sáng hôm sau, cụ Mết, Dít và bé Heng ra tận con nước lớn của rừng xà nu tiễn Tnú trở về đơn vị.

Hình tượng cây xà nu.

Hình tượng nghệ thuật là tất cả những gì của đời sống được nhà văn miêu tả một cách sáng tạo trong tác phẩm nhằm thể hiện tư tưởng, tình cảm, nhận thức của tác giả về con người và về cuộc đời. Vì thế không phải nhà văn nào cũng có khả năng sáng tạo nên một hình tượng độc đáo. Chỉ nhà văn nào gắn bó với đời sống, nắm bắt được những vấn đề cốt lõi cơ bản của đời sống, đồng thời phải có tài năng thực sự thì mới có thể sáng tạo nên một hình tượng nghệ thuật độc đáo và có sức sống lâu dài trong tâm hồn độc giả. Đứng như nhà văn Nga Maxim Gooki đã có lần khuyên một bạn trẻ mới bước chân vào nghề văn: “Anh hãy vứt bút đi, đó không phải là việc của anh. Nghề văn đòi hỏi phải sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật độc đáo mà anh lại không có khả năng làm việc đó”. Vì vậy có thể khẳng định hình tượng nghệ thuật là vấn đề cốt yếu của một tác phẩm.

Bằng vốn sống, sự trải nghiệm sâu sắc về con người, vùng đất Tây Nguyên, Nguyễn Thành Trung đã xây dựng được hình tượng cây xà nu, rừng xà nu. Một hình tượng nghệ thuật độc đáo, giàu sức sáng tạo có ý nghĩa tiêu biểu cho thiên nhiên con người và cuộc sống Tây Nguyên.

Cây xà nu là hình tượng nghệ thuật đặc sắc. Mở đầu tác phẩm là hình tương cây xà nu. Đó là cây xà nu đau thương, cây xà nu giàu sức sống, cây xà nu kiên cường dũng cảm “ ưỡn tấm người lớn của mình ra che chở cho làng”. Và đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời, kết thúc tác phẩm cũng vẫn là hình ảnh đó “ ba người đứng ở đấy nhìn ra xa đến vút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời” . Câu văn này được nhắc lại ở đoạn kết như một điệp khúc láy lại để nhấn mạnh, gây ấn tượng đậm nét trong phần kết thúc truyện đồng thời khắc họa sâu sắc hình tượng cây xà nu, rừng xà nu.

Cây xà nu còn được hiện diện trong suốt câu truyện về Tnú và làng Xô man của anh. Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân Tây nguyên. Có ngọn lửa xà nu trong mỗi bếp nhà, trong đống lửa nhà ưng tập hợp cả làng Xô man. Đuốc xà nu soi sáng rừng đêm khói xà nu xông bảng cho Mai và Tnú học cái chữ của cách mạng. Bọn trẻ con trong làng Xô man mặt đứa nào cũng lem luốc khói xà nu. Cây xà nu là một phần không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của người dân Tây Nguyên. Họ sống cùng với cây xà nu, gắn bó cùng cây xà nu làm nên nét đẹp đời sống văn hóa và tâm hồn nhân dân Tây Nguyên.

Cây xà nu còn chứng kiến những trang sử đau thương mà anh dũng nhất của làng Xô Man. Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ bọn giặc khủng bố rất gắt gao nhằm tiêu diệt những người dân yêu nước, những người cộng sản và tinh thần kháng chiến của người dân Tây Nguyên. Anh Quyết – người cán bộ cộng sản kiên trung đã hoạt động bí mật trong rừng xà nu để lãnh đạo người dân Xô man đứng lên đánh giặc. Vì thế mà các thế hệ người dân Tây Nguyên đã vào rừng làm liên lạc cho anh Quyết đồng thời bảo vệ cán bộ cộng sản. Bọn giặc chặt đầu bà Nhan, cột tóc treo đầu súng, treo cổ anh Xút trên cây và đầu làng nhưng người dân Xô man không một ai run sợ, Mai và Tnú lại tiếp tục làm liên lạc cho anh Quyết. Trong một lần chuẩn bị bơi qua sông Đắc Năng, Tnú bị lọt vào nơi phục kích của giặc, anh đã bị  bắt giam trong nhà lao Kon Tum, bị tra tấn đánh đập rất dã man nhằm bắt Tnú phải khai ra “cộng sản đâu” Mặc dù lưng của Tnú dọc ngang vết chém, ở chỗ vết thương máu ứa ra tím thẫm như giọt nhựa xà nu nưng Tnú tuyệt đối trung thành, anh đặt tay lên bụng mình và nói “ cộng sản ở đây này”. Và sau đó vượt ngục Kon Tum trở về, anh đãvào núi Ngọc Linh lấy đá cùng với thanh niên mài vũ khí trong rừng để chuẩn bị đứng lên đánh giặc. Như vậy trong những đêm người dân làng Xô ma mài vũ khí cho lực lượng có sự chứng kiến của đuốc xà nu, lửa xà nu.

Nếu không có những đuốc lửa xà nu sẽ không thể có những cây giáo, cây mác, cây rựa được mài bằng ý chí kiên cường, lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần căm thù giặc của người Xô man. Nhận được tin làng Xô man mài vũ khí chuẩn bị đứng lên đánh giặc, bọn thằng Dục càng điên cuồng, đã đem quân đến làng Xô man nhằm khủng bố tinh thần yêu nước  và đốt cháy mộng cầm giáo cầm mác của làng Xô man. Cụ Mết cùng Tnú và thanh niên đã trốn vào rừng, còn dân làng Xô man thì phải đứng tập trung ở sân nhà ưng, ai ra sẽ bị bắn chết tại chỗ. Bọn giặc đâu chỉ muốn khủng bố tinh thần yêu nước mà chúng còn muốn cách li những người cách mạng với nhân dân. Mà nhân dân chính là sức mạnh sống còn của cách mạng, không thể có những người cách mạng nếu không có quần chúng nhân dân. Trước sự đe dọa của bọn giặc con Dít rất gan dạ, cứng cỏi, đợi lúc trời tối nó lại bò qua máng nước đem gạo vào rừng cho cụ Mết và thanh niên. Sang đến ngày thứ tư, phát hiện ra con bé, bọn giặc bắt em đứng giữa sân nhà ưng để bắn, đe dọa uy hiếp tinh thần. Nó bắn xén tóc, bắt sượt qua tai, bắn cày đất xung quanh đôi chân nhỏ của Dít nhưng không làm được gì con bé. Mắt nó bình thản nhìn bọn giặc. Bọn giặc lại giở thủ đoạn tàn bạo và man rợ hơn, chúng tra tấn đánh đập Mai và con trai của Tnú cho đến chết. Không thể chịu được nỗi đau thương, Tnú đã nhảy xô vào giữa bọn lính và bọn thằng Dục đã lấy giẻ tầm dầu xà nu, châm lửa và đốt mười đầu ngón tay của Tnú. Mười đầu ngón tay của anh đã trở thành mười ngọn đuốc sống và ngọn đuốc ấy cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng, cháy cả ruột Tnú. Đúng là không gì đượm bằng nhựa xà nu. Vì thế mười đầu ngón tay của Tnú ngón nào cũng chỉ còn hai đốt. Mười đầu ngón tay của Tnú đã trở thành chiến tích của tội ác và lòng hận thù. Trong bi kịch đau đớn nhất của cuộc đời Tnú và làng Xô man có sự chứng kiến của nhựa xà nu, dầu xà nu, đuốc xà nu, lửa xà nu và khói xà nu.

Cây xà nu còn chứng kiến sự kiện lịch sử anh dũng nhất của làng Xô man, đó là sức mạnh của làng Xô man trong đêm đồng khởi. Chứng kiến cảnh vợ con Tnú bị giết chết, Tnú bị đốt mười đầu ngón tay cụ Mết đã ra lệnh đồng khởi chém, chém hết.Tất cả thanh niên trong làng mỗi người một cây rựa sáng loáng vùng lên giết chết bọn giặc và xác mười tên lính nằm ngổn ngang trên đống lửa xà nu. Và đêm hôm đó cả rừng Xô man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng. Như vậy lửa xà nu đã làm sáng lên một chân lí: “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.

Cây xà nu còn biểu tượng cho sức sống, phẩm chất tâm hồn và vẻ đẹp của người dân Tây Nguyên. Vai trò chủ âm của hình tượng cây xà nu được xác nhận qua lời kể của chính tác giả về truyện ngắn này: “Bắt đầu như thế nào? Nhưng quả thật bắt đầu tôi chưa hề có câu truyện, cốt truyện nào cả bắt đầu đến với ngòi bút, gần như không hề tính trước là một khu rừng xà nu, cây xà nu. Hồi tháng 5 năm 1962 hành quân từ miền Bắc vào tôi cùng đi với Nguyễn Thi, đến điểm chia tay mỗi người về chiến trường của mình là khu rừng bát ngát phía tây thừa thiên giáp lào. Đó là một khu rừng xanh tít tắp tận chân trời. Tôi yêu cây rừng xà nu từ ngày đó, ấy là một loài cây hùng vĩ và cao thượng man dại và trong sạch. Mỗi cây cao vút vạm vỡ và ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi. Với đặc điểm tự nhiên của cây xà nu một loài cây hùng vĩ cao thượng , man dại, trong sạch”. Nguyễn Trung Thành đã tạo được sự tương ứng kì lạ giữa đặc điểm của cây xà  nu với phẩm chất tâm hồn người dân Tây Nguyên.

Cây xà nu là loại cây ham ánh sáng măt trời, nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây ứa ra, thơm mỡ màng. Cây xà nu ham ánh sáng giống như người dân Tây Nguyên rất yêu cách mạng, yêu cuộc sống tự do, một lòng một dạ trung thành với lí tưởng Đảng. Cụ Mết đã nói: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn núi nước này còn.”  Như vậy chừng nào có Đảng có cán bộ cách mạng thì núi rừng Tây Nguyên sẽ được tự do. Tinh thần ấy của cụ Mết cũng là tinh thần của Tnú ngay từ khi Tnú còn nhỏ. Khi Mai và Tnú vào rừng làm liên lạc cho anh Quyết. Anh Quyết dạy Mai và Tnú học cái chữ. Đi đường rừng Tnú sáng dạ lạ lùng nhưng học chữ lại rất nhanh quên. Tnú đã lấy đá đập vào đầu mình cho chảy máu ra bởi vì nếu không học được cái chữ của cụ Hồ, không thể làm người cán bộ giỏi mà không có người cán bộ cách mạng lãnh đạo dân nào đứng lên đánh giặc, sẽ không thể có cuộc sống tự do, vì thế các thế hệ người dân Tây Nguyên đều hướng về ánh sáng của Đảng, ánh sáng của cuộc sống tự do, vì thế không phải ngẫu nhiên Nguyễn Trung Thành đã viết nên câu văn đẹp nhất hay hay nhất miêu tả vẻ đẹp của cây xà nu trong ánh sáng rực rỡ mãnh liệt. Nhà nghiên cứu văn học Đỗ Kim Hồi đã từng cảm nhận: “Nguyễn Thành Trung đã không dè xẻn chất vàng son của ngôn từ quyết làm cho bức tranh về rừng xà nu phải trở thành tấm sơn mài lộng lẫy.”

Cây xà nu còn là cây phải chịu nhiều đau thương trong bom đạn kẻ thù. Hàng ngày bọn giặc bắn đại bác vào làng Xô man chúng nó bắn đã thành lệ hoặc buổi sáng sớm và xế chiều hoặc đứng bóng và xẩm tối hoặc nửa đêm và trở gà gáy . Vì cây xà nu kiêu hãnh ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng cho nên hầu hết đại bác của giặc  đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn, cây xà nu trở thành đối tượng đầu tiên của sự tàn phán hủy diệt “cả rừng xà nu hàng vạn cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng vùng máu lớn” “có cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó nhựa còn trong chất dầu còn loãng vết thương không lành được cứ loét mãi ra năm mười hôm thì cây chết.”

Như vậy cây xà nu là thiên nhiên giữa tầm đại bác, là loại cây chịu nhiều đau thương tàn phá trong bom đạn kẻ thù. Nỗi đau thương đó của cây xà nu cũng là nỗi đau thương của làng Xô man. Lịch sử của làng là lịch sử của những ngày đau thương và nhiều mất mát đã có biết bao nhiêu người hi sinh trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Bà Nhan bị chặt đầu, anh Xút bị treo cổ trên cây vả đầu làng, anh Quyết hi sinh, vợ con Tnú bị tàn sát. Có thể nói cứ mỗi một cây xà nu ngã xuống tướng ứng với một nỗi đau của làng Xô man. Phải chăng cây xà nu bị thương, nhựa ứa ra bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn là hình ảnh của Tnú trong ngày bị tra tấn đánh đập ở nhà ngục Kon Tum. Những cây con lớn ngang tầm ngực người bị đại bác chặt đứt làm đôi là hình ảnh của Mai đã ngã xuống giữa tuổi thanh xuân của đời người con gái. Và phải chăng cây xà nu có vết thương không được cứ loét mãi ra năm đến mười hôm là cây chết là hình ảnh của anh Quyết- người cán bộ kiên trung đã bị thương và rồi hi sinh ở trong rừng. Nói chung cây xà nu và người Xô man đã hòa làm một trong nỗi đau của hi sinh và mất mát tuy nhiên có một điều kì diệu là càng trong bom đạn cây xà nu càng đẹp càng tươi xanh càng có một sức sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi “ trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên ngọn xanh dờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời lại có cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão ở chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”

Cây xà nu có sức sống mãnh liệt cũng giống như người dân tây nguyên kiên cường dũng cảm không khuất phục trước bom đạn và sự tàn phá của kể thù. Các thế hệ làng Xô man lớp này tiếp lớp khác đứng lên gìn giữ truyền thống quê hương xứ sở… bà Nhan hi sinh đã có anh Xút đứng lên anh Xút ngã xuống đã có anh Quyết lãnh đạo dân làng. Anh Quyết hi sinh đã có Tnú đứng lên tiếp tục sự nghiệp. Mai ngã xuống đã có Dít thay thế chị và sau Dít là bé Heng sẽ lớn lên à như vậy các thế hệ người dân Tây Nguyên  như cánh rừng xà nu bạt ngần nối tiếp nhau đến chân trời.

Như vậy cây xà nu bất chấp bom đạn như người Tây Nguyên kiên cường dũng cảm không khuất phục trước kẻ thù, không có bom đạn đại bác nào xóa nổi sự tồn tại bền bỉ và kiêu hãnh của làng Xô man, rừng xà nu. Chọn cây xà nu là biểu tượng, tác giả tạo được sự phù hợp kì lạ giữa những phẩm chất của cây xà nu, rừng xà nu và người Tây Nguyên. Cho nên cây xà nu mang ý nghĩa tượng trưng cho sức sống mãnh liệt và phẩm chất của người Tây Nguyên. Đó cũng là hình ảnh của nhân dân miền Nam những ngày đau thương và anh dũng. Hình tương cây xà nu làm ho tác phẩm mang tính sử thi lãng mạn và chất thơ hùng tráng. Cây xà nu là thành công trong sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành

Để xây dựng thành công hình tượng cây xà nu tác giả sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ từ đó ta thấy được mối liên hệ lạ kì giữa cây xà nu và người dân làng Xô man. Tác giả đã sử dụng bút pháp sử thi với bức tránh hoành tráng về rừng xà nu và phẩm chất của người Tây Nguyên mang tính đại diện cho cộng đồng dân tộc. Ngôn ngữ của tác phẩm rất trang trọng tráng lệ hào hùng có tính biểu tượng cao và có sức gợi cảm. Giọng văn tha thiết trang trọng mang đậm cảm hứng ngợi ca và âm hưởng hùng tráng. Tất cả những sáng tạo này làm cho cây xà nu trở thành một hình tượng độc đáo có một không hai trong cuộc đời của những người nghệ sĩ thiên tài.

Hình tượng nhân vật cụ Mết.

Nhân vật trong văn học là con người được miêu tả, phản ánh trong tác phẩm văn học. nhân vật có thể có tên có thể không tên nhưng nói chúng đều phản ánh cuộc sống của con người. Nhà văn xây dựng nhân vật để thể hiện nhận thức và tư tưởng tình cảm của mình về con người và cuộc sống. Tô Hoài đã từng nói “nhân vật là trụ cột của tá phẩm văn học vì thế nhà văn chỉ thực sự lớn khi xây dựng được những nhân vật có tầm tư tưởng lớn”

Hình tượng cụ Mết, biểu tượng tinh thần của nhan dân làng Xô-man, đã được nhà văn hết sức chú ý khắc họa đậm nét, giàu tính sử thi. Ngay khi vừa xuất hiện, ấn tượng về một vị già làng mạnh mẽ đã thể hiện trong hình ảnh một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy tay Tnú như một cái kìm sắt. Những nét vẽ ngoại hình về một cụ già quắc thước … mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng … ngực căng như một cây xà nu lớn … đã phác họa hình ảnh của một già làng sắc sảo, kiên nghị, vững chãi, tiềm tàng sức mạnh thể chất, tràn đầy uy lực tinh thần, có sức lôi cuốn, thuyết phục mạnh mẽ với cộng đồng.

Hầu như nét miêu tả nào ở cụ Mết cũng có tính cá biệt: cách nói ra như lệnh, ngôn ngữ giản dị mà dứt khoát thể hiện sự quyết đoán của những người đứng đầu; việc cụ không bao giờ khen, khi vừa ý nhất cũng chỉ nói: Được! là tính cách của một người luôn yêu cầu cao ở người khác cũng như chính mình, là thái độ coi trọng mọi người và tự trọng với bản thân; đặc biệt ấn tượng là giọng nói: đó thường là tiếng nói ồ ồ, dội vang trong lồng ngực, tiếng nói ấy hoặc vang vang khi hô hào dân làng Xô Man nổi dậy, hoặc trầm và nặng như tiếng vọng của núi rừng, như lời phán truyền của quá khứ khi kể chuyện về cuộc đời Tnú, về lịch sử oanh liệt của làng, tiếng nói ấy tha thiết trang nghiêm khi nhắc nhở dân làng và con cháu bài học lịch sử: “Nghe rõ chưa các con, rõ chưa, nhớ lấy, ghi lấy…!”

Cụ Mết là người có tình yêu sâu sắc, sự gắn bó máu thịt với quê hương. Khi Tnú đi xa về, cụ dẫn anh ta ra máng nước đầu làng giội rửa, bằng việc làm ấy, cụ như muốn nhắc nhở người con xa quê dù có đi tới phương trời nào cũng phải ghi nhớ và trân trọng nguồn cội thiêng liêng của quê hương. Nói chuyện với Tnú, cụ luôn tự hào khẳng định bằng cách nói tuyệt đối có phần hơi cực đoan, cách nói quen thuộc của tình yêu: không gì mạnh bằng cây xà nu đất ta… gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này… Với cụ Mết, quê hương thật đẹp đẽ và lớn lao, thiêng liêng và thân thuộc từ dòng nước trong nguồn, hạt gạo trên nương cho tới những cánh rừng xà nu bạt ngàn mạnh mẽ và cường tráng. Cụ luôn tâm niệm và dặn con cháu: Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn – như vậy, lòng trung thành với Đảng và cách mạng của cụ cũng xuất phát từ tình yêu sâu sắc với rừng núi quê hương.

Bên trong con người có vẻ quắc thước, nghiêm nghị ấy là một trái tim trĩu nặng tình thương yêu với dân làng.Khi Tnú trở về thăm làng sau ba năm đi lực lượng, cụ Mết đã đón anh bằng tấm lòng thương yêu nồng hậu của người cha: quyết định anh ở nhà cụ Mết trong đêm về làng, động viên khích lệ anh: Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được – cụ đã đem đến cho Tnú, người con bất hạnh của dân làng Xô Man một cảm giác ấm áp của gia đình khi trở về làng. Ngồi ăn cơm với Tnú, nhìn lại hai bàn tay cụt đốt của anh, ông cụ đặt chén cơm xuống giận dữ, đó là biểu hiện rõ nhất của nỗi đau đớn xót thương cho Tnú, của nỗi căm giận kẻ thù tàn bạo không thể nguôi ngoai – bàn tay Tnú đã thành sẹo nhưng vết thương trong lòng già làng hình như vẫn chưa thôi nhức nhối. Khi kể cho dân làng nghe về cái chết của vợ con Tnú, dù câu chuyện xảy ra đã tới ba năm, cụ vẫn không kìm nổi sự tiếc thương, đau đớn và xúc động, cụ vụng về trở tay lau một giọt nước mắt như muốn che giấu sự yếu đuối của lòng mình. Nhưng cũng chính cử chỉ vụng về ấy lại bộc lộ trái tim nhân hậu và tình yêu thương sâu sắc, chân thành của cụ với dân làng. Nhận được gói muối quý giá từ những người đi xa về, cụ luôn chia đều cho mọi người trong làng, để dành cho những người đau ốm, vị mặn của những hạt muối nhỏ bé  cũng là vị mặn đậm đà của tình yêu thương trái tim già làng.

Trong vai trò của một già làng thời đánh Mĩ, cụ Mết kiên cường, vững chãi như một cây xà nu lớn, là chỗ dựa tin cậy của dân làng, có sức lôi cuốn mạnh mẽ với dân làng. Cụ Mết luôn giữ cho mình tình yêu, niềm tin và lòng tuyệt đối trung thành với Đảng, với cách mạng, câu nói: Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn! Cho thấy tình cảm của cụ với cách mạng thật chân thành, thiêng liêng, thấm thía khi nó có cội nguồn từ tình yêu núi nước quê hương. Cụ là người đứng đầu biết nhìn xa trông rộng, biết lo cho cuộc chiến đấu chung của dân làng. Cụ động viên dân làng lo dự trữ lương thực để có thể đủ ăn tới ba năm bởi: đánh Mĩ phải đánh dài… Cụ đã thể hiện vai trò của một người già làng, tỉnh táo, sáng suốt kiềm chế được nỗi đau đớn và căm hờn ngay trong phút khốc liệt nhất, tìm ra con đường đúng đắn nhất, lãnh đạo dân làng nổi dậy, cầm vũ khí tiêu diệt kẻ thù. Trước cái chết của vợ con Tnú, trước cảnh Tnú bị bắt trói, bị tra tấn dã man, cụ Mết đau đớn song tỉnh táo không để tình cảm chi phối dẫn đến những hành động bộc phát, cụ nhắc đi nhắc lại: “Tau không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không. Tau không ra tau đi vào rừng… tìm bọn thanh niên…tìm giáo mác… Chính lí trí sáng suốt cần thiết của một già làng, của một người đứng đầu, người chịu trách nhiệm với sự sống còn của cả cộng đồng đã giúp cụ Mết lãnh đạo dân làng chiến đấu và chiến thắng kẻ thù tàn bạo. Với trí tuệ sắc sảo của người đứng đầu, cụ Mết không chỉ nhắc tới sự kiện đau thương và các cuộc chiến đấu oanh liệt của dân làng trong đêm ấy như một kỉ niệm, cụ đã khái quát, đúc kết và khắc sâu quy luật tất yếu của cuộc chiến tranh cách mạng: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”. Chân lí ấy đã được rút ra từ những trang sử đầy máu và nước mắt của dân làng Xô Man, thông qua lời nhắc tha thiết của già làng: ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ lấy. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe…, nó sẽ trở thành lời phán truyền thiêng liêng của lịch sử cho các thế hệ mai sau.

Có thể khẳng định cụ Mết là một hình tượng nhân vật đẹp gợi nhớ hình ảnh những già làng, tộc trưởng trong sử thi, thần thoại, truyền thuyết. Trong những bản trường ca Tây Nguyên xưa. Bút pháp miêu tả đặc sắc của nhà văn Nguyễn Trung Thành cùng sự chi phối của khuynh hướng sử thi trong nền cảm hứng chung của văn học 1945 – 1975 khiến nhân vật không chỉ hiện lên với những phẩm chất ưu tú của cộng đồng mà còn là một nhân vật có cá tính riêng đặc sắc. Thông qua nhân vật cụ Mết, Nguyễn Trung Thành đã ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần chiến đấu bất khuất, kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong thời đánh Mĩ, cũng đồng thời khái quát chân lí lịch sử lớn lao của thời đại, lí giải sâu sắc và thuyết phục con đường giải phóng của nhân dân, đất nước.

Hình tượng nhân vật Tnú.

Bên cạnh nhân vật Cụ Mết, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tnú, một nhân vật trữ tình có đời sống tư tưởng tình cảm cuộc đời và số phận riêng nhưng đồng thời là nhân vật anh hùng nhân vật sử thi kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cộng đồng và dân tộc

Nhà văn đã rất sáng tạo khi miêu tả sự xuất hiện của Tnú. Sau ba năm đi lực lượng Tnú trở về làng đêm hôm đó anh ở lại nhà của cụ Mết bên đống lửa xà nu ngoài trời mưa rì rào như gió nhẹ những người dân làng Xô Man ngồi quây quần quanh đống lửa nghe cụ Mết kể về cuộc đời của Tnú và lịch sử đau thương anh dũng của làng Xô Man như vậy sự xuất hiện của Tnú giống như sự xuất hiện của các anh hùng dân tộc Tây Nguyên trong lối kể khan, hát khan của đồng bào các dân tộc tiểu số.

Cuộc đời Tnú lúc còn nhỏ cho đến khi trở thành người chiến sĩ. Trong lời kể của cụ Mết cuộc đời của Tnú được kể lại từ lúc anh còn nhỏ cho đến khi anh trở thành chiến sĩ. Lúc nhỏ cuộc đời của Tnú rất đáng thương anh là con người của dân làng Xô Man, cha mẹ mất sớm được dân làng cưu mang nuôi dưỡng đùm bọc đặc biệt cụ Mết coi Tnú như con đẻ của mình. Tnú sớm có cái bụng thương núi thương nước thương yêu nhân dân làng xóm đúng như lời cụ Mết: “ Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.

Trong thời gian Tnú đi lực lượng không lúc nào anh không nuôi nỗi nhớ thương về làng của anh mà nỗi nhớ day dứt nhất là tiếng chày giã gạo của những người phụ nữ Strá bởi trong âm vang của tiếng chày ấy có hình ảnh của người mẹ, của Mai của Dít và tất cả người phụ Strá những người đã làm nên hạt gạo ngon nhất núi rừng này.

Khi trở về làng Tnú không quên hình ảnh thân thuộc về ngôi làng của mình anh vẫn nhớ con đường cũ qua cái Nà Bắp trong sắn và cây Pomchu đến hai cái dốc đứng sững đã cắt ra từng bục, chui qua một rừng lách rậm ngày mưa vô số vắt lá thì đến cái làng nhỏ của anh. Vì thế về đến làng Tnú đã rửa mặt bằng nguồn nước suối trong trẻo của làng, cho vơi đi nỗi nhớ day dứt trong lòng anh.

Đáng xúc động hơn nữa, trong tình cảm của Tnú dành cho buôn làng đó là anh không quên một người dân nào của làng Xô Man, từ anh Brơi cho đên những cụ già lụm cụm bò xuống cầu thang. Vì thế anh đã súc cho cụ Mết một muỗng muối. Cụ Mết lại chia đều cho mỗi người mấy hạt để ăn sống, ngâm rất lâu trong miệng để nghe cái chát mặn đậm đà tan dần phải chăng chất muối mặn mà cũng chính là tình cảm sâu nặng thủy chung Tnú dành cho quên hương làng xóm.

Từ tình yêu với buôn làng Tnú đã mở rộng thành tình yêu gắn bó thủy chung sâu nặng với cách mạng, với kháng chiến bởi vì ngay từ khi Tnú còn nhỏ Tnú đã được cụ Mết người gìn giữ và thắp ngọn lửa cách mạng từ thế hệ này sang thế hệ khác cho hay “ cán bộ là Đảng Đảng còn núi nước này còn” vì vậy ngay từ chặng đầu của cuộc đời Tnú xuất hiện với tư cách người anh hùng Tây Nguyên thời chống Mĩ cứu nước

Trước hết Tnú là một người gan góc táo bạo và đầy quả cảm bất chấp sự vây lùng khủng bố dã man của kẻ thù như bà Nhan bị chặt đầu cột tóc treo đầu súng, anh Xút bị treo cổ trên cây vải đầu làng, Tnú đã cùng Mai xung phong vào rừng bảo vệ anh Quyết người cán bộ kiên trung của Đảng. Đây là một công việc đầy gian khổ và nguy hiểm nhưng Mai và Tnú đã làm rất tốt để người dân làng Xô Man mãi tự hào “ lăm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này” chiến công của Tnú đã trở thành chiến công chung của làng Xô Man

Tnú còn là một người có phẩm chất chính trị trong sáng trung thực thẳng thắn như cây xà nu, Tnú quyết tâm học cho được cái chữ của cụ Hồ để trở thành cán bộ giỏi thay anh Quyết nếu không may anh Quyết bị hi sinh nhưng Tnú học cái chữ rất hay quên “ Học đến chữ i dài nó không sao nhớ nổi cái chữ chi tròn tròn mà có dấu móc và chữ chi có cái bụng to to đứng sau chữ đó” quả thực để đưa cái chữ của cách mạng vào cái đầu rắn như đá của Tnú không phải là chuyện dễ dàng, Trong khi đó Mai lại học rất thông minh. Tnú đã tự phạt mình bằng cách lấy đá dập vào đầu mình cho chảy máu ra. Hàng động này có phần nóng nảy nông nổi nhưng nó biểu lộ ý chí quyết tâm sắt đá của một con người có ý chí. Vì không học được chữ cho nên tự chừng phạt mình cho đau cho nhớ mà cố gắng hơn đồng thời nó cũng thể hiện tình yêu của Tnú với cách mạng.

Mặc dù học chữ thì nhanh quên nhưng làm liên lạc chuyển thư cho anh Quyết Tnú lại có cái đầu sáng lạ lùng Tnú rất thông minh mưu trí sáng tạo gan góc và đầy mạo hiểm đi đường rừng Tnú không bao giờ đi đường mòn vì đi con đường đó bọn giặc thường bao vây khắp các ngả Tnú trèo lên cây cao quan sát một lượt rồi mới xé rừng mà đi. Còn khi đi đường sông Tnú không thích lội chỗ  nước êm, chỗ đó bọn giặc cũng thường phục kích mà Tnú cứ lội chỗ thác mạnh mà bơi ngang vượt lên trên mặt nước cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình. Bọn giặc có bao vây khắp mọi ngã đường cũng không thể chiến thắng nổi sự mưu trí và sáng tạo của Tnú. Nhưng cuối cùng bọn giặc vẫn cứ phát hiện ra. Trong một lần Tnú vừa quấn cái thư của anh Quyết gửi lên huyện trong một ngọn lá dong định vượt thác thì họng súng của kẻ thù đã chĩa vào tai Tnú lạnh ngắt. Tnú chỉ kịp nuốt lá thư vào bụng để đảm bảo bí mật an toàn của Đảng. Và sau đó bọn giặc đã bắt giam Tnú giam vào nhà ngục Kon Tum. Trong 3 năm bị giam cầm, tra tấn, đánh đập rất dã man ở nhà tù này bọn giặc chỉ hỏi Tnú một câu: “cộng sản đâu” nhưng Tnú vẫn chỉ tay lên bụng mình và nói: “Ở đây này”. Để rồi sau đó lưng anh lại vằn dọc vằn ngang những vết chém của kẻ thù. Ở những chỗ vết thương đó máu ứa ra tím thâm như nhựa xà nu.  Những chi tiết đó là minh chứng cho lòng kiên cường dũng cảm và trung thành tuyệt đối với cách mạng của Tnú. Đó là tinh thần “uy vũ bất năng khuất”

Như vậy từ nhỏ cho đến khi trở thành người chiến sĩ Tnú đã trải qua bao thử thách khó khăn gian khổ để vững vàng trong cuộc chiến đấu với kẻ thù. Nguyễn Trung Thành đã đặt nhân vật Tnú trong bi kịch gia đình, đồng thời qua đó ngợi ca sức sống bất khuất và tình yêu thương gia đình vô hạn của nhân vật. Sau khi bị giam cầm trong nhà ngục Kontum bằng tinh thần dũng cảm Tnú đã vượt ngục trở về và trực tiếp lãnh đạo nhân dân đánh giặc và Mai- Người bạn từ thủa thiếu thời đã cùng Tnú trưởng thành qua năm tháng thử thách khốc liệt của chiến tranh nay đã là vợ của Tnú. Đứa con trai kháu khỉnh vừa đầy tháng là hoa trái đàu mùa của mối tình thơ ông và thủy chung ấy. Hạnh phúc, gia đình của Tnú đẹp như trăng rằm lung linh tỏa sáng cả núi rừng Tây Nguyên. Song kẻ thù tàn bạo đã đập vỡ tổ ấm hạnh phúc của Tnú một cách không tiếc thương. Bọn thằng Dục đã tra tấn đánh đập Mai và đứa con chưa đầy tháng của Tnú – Người cầm đầu linh hồn của cuộc nổi dậy. Nhưng lúc đó Tnú và làng Xô Man chỉ có tay không. Đoạn văn miêu tả tâm trạng bất lực của Tnú thật bi thương và tràn đầy xúc cảm, ấn tượng: “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay, anh chồm dậy… ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”.

Căm thù lớn nhất trong tim đã thành lửa bùng cháy trong hai con mắt. Một chi tiết thật dữ dội, nó thể hiện lòng sôi sục căm thù và nỗi đau đớn đến tuyệt vọng của Tnú. Không thể chịu nổi nỗi đau đớn và dữ dội này Tnú đã nhảy xổ vào giữa đám lính, hai cánh tay rộng lớn như hai cánh gỗ lim của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai nhưng không kịp nữa rồi. Tnú bị bắt bị trói, đứa bé  đã chết, Mai cũng đã chết rồi nhưng Tnú không khóc, anh gìm nén nỗi đau, cố vượt qua bi kịch cá nhân để tiếp tục sống và chiến đấu. Bị bọn giặc trói bằng dây rừng ném vào góc nhà ưng Tnú không hề run sợ trước cái chết cận kề mà anh cảm thấy mình thật bình thản. Anh nghĩ: “đứa con chết rồi, Mai cũng chắc chết rồi, Tnú cũng sắp chết” Nhưng Tnú không sợ, điều làm Tnú day dứt nhất chính là không được sống đến ngày cùng dân làng Xô Man nổi dậy giải phóng. Tnú hoàn toàn không nghĩ đến mình nữa, Tnú đặt cái chung, đặt nhiệm vụ lên trên bi kịch cá nhân mình đó là thái độ biến đau thương thành hành động

Tuy nhiên bi kịch của Tnú chưa dừng lại ở đây Tnú còn bị bọn giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu đốt 10 đầu ngón tay. Chúng định dùng lửa để thiêu rụi ý chí  đấu tranh của dân làng Xô Man, để đốt cháy hệ thần kinh yêu nước của  người cộng sản. Nhưng chúng đã nhầm chúng đã vô hình thắp lên ngọn lửa đồng khởi, gọn lửa đấu tranh của dân làng Xô Man. Một ngón tay Tnú bốc cháy, hai ngón, ba ngón không có gì đượm bằng nhựa Xà Nu. 10 ngón tay của Tnú nhanh chóng trở thành 10 ngọn đuốc sống nhưng kì lạ thay người cộng sản đó không thèm kêu van dù ngọn lửa ấy cháy cả ngực cả bụng, ruột, Máu mặn đắng ở đầu lưỡi răng anh đã cắn nát môi anh rồi, Tnú không thèm kêu van nhưng cụ Mết đã thét lên một tiếng “giết” . Tiếng thét ấy làm rung chuyển núi rừng , làm lay động tâm can con người. Cộng hưởng của tiếng thét ấy là tiếng chân người chạy rầm rập trên nhà ưng tiếng cụ Mết ồ ồ: “chém, chém hết” tiếng thét ấy rở thành ngòi nổ làm bùng cháy cả khối thuốc nổ căm hờn cả dân làng XôMan và trong phút chốc họ đã vùng lên giết chết bọn giặc xác bọn chúng nằm ngổn ngang quanh đống lửa xà nu, thằng Dục đã phải bỏ mạng dưới ngọn mác của cụ Mết

Cuộc đời bi tráng của Tnú đã làm sáng tỏ một chân lí giản dị mà sâu xa của cuộc sống. Chân lí đó đã được cụ Mết truyền dạy cho con cháu “ nghe rõ chưa các con, rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy sau này tau chết rồi bay còn sống phải nói lại cho con cháu : chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo” đó là chân lí của cách mạng được nảy sinh từ mảnh đất Tây Nguyên thẫm máu và nước mắt. Một chân lí nghiệt ngã như tất yếu phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu tự giải phóng nhân dân.

Vượt qua bi kịch cá nhân Tnú trở thành người cán bộ người chiến sĩ có tính thần kỉ luật cao. Từ đây cả dân làng Xô Man vùng dậy cầm lấy giáo mác làm vũ khí chống lại vũ khí tối tân của Mĩ ngụy và chặng đường cầm vũ khí của Tnú được tiếp nối bằng việc đi lực lượng Tnú đã vượt qua mọi đau thương và bi kịch cá nhân tham gia lực lựng quân giải phóng để quét sạch tất cả bọn thằng Dục kẻ thù không đội trời chung với dân làng Xô Man Khi đã trở thành chiến sĩ giải phóng quân Tnú là cán bộ có tinh thần kỉ luật cao tuy nhớ quê hương gia đình nhưng phải được cấp trên cho phép Tnú mới về thăm làng một đêm như quy định để hôm sau Tnú lại lên đường. Chính phẩm chất này đã khiến Tnú trở thành người anh hùng, thành niềm tự hào kiêu hãnh của dân làng Xô Man.

Hình tượng đôi bàn tay rực lửa của Tnú.

Nhân vật Tnú không chỉ hấp dẫn độc giả bởi phẩm chất tính cách anh hùng mà còn hấp dẫn bởi tính hình tượng của tác phẩm một trong những hình tượng giàu giá trị nghệ thuật, ý nghĩa thẩm mĩ có sức ám ảnh đặc biệt với độc giả là bàn tay rực lửa Tnú. Đây là một hình tượng có số phận riêng gắn bó mật thiết với cuộc đời Tnú góp phần tô đậm thêm những nét phẩm chất cao đẹp của anh.

Lúc còn nhỏ đó là bàn tay kiên trì làm nương phát rẫy, rồi lấy đá đập  vào đầu mình cho máu chảy ra. Đó là bàn tay của trung thực tình nghĩa bàn tay cầm phấn viết chữ của anh Quyết dạy cho và đặt lên bụng mình mà nói: “ công sản ở đây này”. Đây là đôi bàn tay chí nghĩa bàn tay không biết phản bội bao giờ. Đó còn là đôi bàn tay tình nghĩa đôi bàn tay ấy từng được Mai nắm chặt mà khóc bằng những giọt nước mắt nóng bỏng yêu thương. Bàn tay ấy đã xé tấm dề để Mai địu đứa con thơ và dang rộng vòng tay lần cuối đón mẹ con Mai vào lòng khi giặc đốt 10 đầu ngón tay TNú bàn tay trở thành chứng tích của tội ác và lòng hận thù mà Tnú mang theo suốt cả cuộc đời lòng hận thù ấy biến bàn tay Tnú thành bàn tay quả báo, bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn có thể cầm giáo cầm súng để Tnú lên đường rửa hận và cuối cùng cũng chính bàn tay ấy đã siết vào cổ họng tất cả những thằng Dục ác hơn cả dã thú Tnú đã nói với kẻ thù “ Tao có súng đây, tao có cả dao găm đây nhưng tao không giết mày bằng súng tao không đâm mày bằng dao nghe chưa Dục. Tao giết mày bằng 10 ngón tay cụt này thôi tao bóp cổ mày thôi”

Đôi bàn tay Tnú là đôi bàn tay của lịch sử của số phận trở thành biểu tượng cho sức sống bất khuất sức sống mãnh liệt của Tnú và dân làng Xô Man, sức sông ấy như những khu rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương mà vẫn tuwoi xanh bát ngát trải xa tít tắp tận chân trời

Thông qua cuộc đời nhân vật Tnú, thông qua câu chuyện kể xúc động và những lời nhắc nhở trang nghiêm, tha thiết của già làng, Nguyễn Trung Thành đã đem đến cho người đọc một nhận thức lớn lao: Tnú có thừa sự dũng cảm, tình yêu, lòng căm thù và ý chí bất khuất, kiên cường, ở Tnú hội tụ tất cả những sức mạnh tinh thần và thể chất phi thường, hoang dại của người tráng sĩ Tây Nguyên, nhưng tất cả những phẩm chất ấy vẫn chưa đủ để anh bảo vệ được cuộc sống của vợ con và chính bản thân mình khi đương đầu với kẻ thù bằng hai bàn tay trắng. Tới bốn lần, trong cả lời trần thuật của đoạn văn và lời kể của cụ Mết, Nguyễn Trung Thành khắc họa bi kịch của Tnú: Tnú không cứu được vợ con!, để từ bi kịch ấy, từ cái chết đau xót của mẹ con Mai, từ hai bàn tay cụt nốt của Tnú, một bài học lịch sử đã được tổng kết thấm thía: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”. Và đặc biệt qua lời dặn thiết tha của già làng: Nghe rõ chưa… nhớ lấy… ghi lấy… nói lại cho con cháu…, bài học ấy mang tính chất vĩnh hằng của một quy luật lịch sử: bạo lực phản cách mạng chỉ có thể bị tiêu diệt bằng bạo lực cách mạng.

Ý nghĩa lớn lao của bài học lịch sử ấy đã được chứng minh ngay trong thực tế chiến đấu oanh liệt của làng Xô Man: khi dân làng đã cầm giáo mác đứng lên chống lại súng đạn của kẻ thù thì tất cả sẽ thay đổi – lửa sẽ được dập tắt trên bàn tay Tnú, lửa xà nu sẽ chỉ soi rõ xác giặc chết ngổn ngang; đuốc xà nu sẽ lại cháy lên để hòa cùng tiếng chiêng hào tráng trong đêm nổi dậy của dân làng; hai bàn tay đã cụt đốt của Tnú cũng sẽ hồi sinh với một sức mạnh trả thù khủng khiếp nhất. Tnú sẽ được sống trong cảm giác tìm lại phần nào những gì mình đã mất: Mai như tiếp tục sống trong hình ảnh người em gái giống chị như hai giọt nước, nhưng nếu người chị chỉ biết nhường nhịn và yêu thương thì Dít lại có thêm đôi mắt cứng cỏi và nghiêm nghị của người chiến sĩ. Đứa con của Tnú và Mai không còn, nhưng sẽ xuất hiện thêm hình ảnh của bé Heng – thằng bé vừa như hình ảnh của Tnú hồi nhỏ, vừa gợi đến triển vọng tương lai: “Nó sẽ còn đi tới đâu, chưa ai lường trước được…

Truyện ngắn “Rừng xà nu” là câu chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man, khi mở đầu và kết thúc truyện là hình ảnh những đồi xà nu, rừng xà nu nối tiếp tới những chân trời, hình ảnh của sức sống trường tồn, tác phẩm đã đưa đến tầng ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: những người dân Tây Nguyên cầm vũ khí chiến đấu không phải để tiêu diệt mà để chống lại sự hủy diệt, để giữ cho sự sống mãi mãi sinh sôi. Như vậy, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, con đường đi của Tnú, của dân làng Xô Man, cuộc chiến đấu chống Mĩ và tay sai chính là con đường duy nhất để bảo vệ sự sống của Tổ quốc và nhân dân ta.

Bút pháp miêu tả đặc sắc của nhà văn Nguyễn Trung Thành cùng sự chi phối của khuynh hướng sử thi trong niềm cảm hứng chung của văn học 1945 – 1975 khiến nhân vật Tnú không chỉ hiện lên với những phẩm chất ưu tú của cộng đồng mà còn là một nhân vật có cá tính riêng đặc sắc. Thông qua cuộc đời bi tráng của Tnú, tác phẩm đã ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất của nhân dân Tây Nguyên, thể hiện mâu thuẫn không đội trời chung giữa nhân dân Tây Nguyên với bè lũ Mĩ – Ngụy. Khái quát chân lí lịch sử lớn lao của thời đại, lí giải sâu sắc và thuyết phục lí do vùng dậy và sức mạnh chiến đấu không gì dập tắt nổi của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh giải phóng đất nước.

Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã rất thành công trong nghệ thuật biểu hiện đậm chất anh hùng ca. Nhân vật Tnú là kiểu nhân vật sử thi nhân vật anh hùng tính cách cuộc đời và số phận của nhân vật này tiêu biểu cho phẩm chất lịch sử  và cả cộng đồng Xô Man. Tuy nhiên bên cạnh những phẩm chất mang ý nghĩa đại diện Nghuyễn Trung Thành còn chú trọng việc khác họa đời sống tình cảm, tâm hồn Tnú vì thế ở nhân vật này có sự thống nhất hài hòa giữa tính sử thi và chất trữ tình. Nhà văn còn đặt Tnú vào tình huống xung dột kịch tính giữa nhân dân, cách mạng với kẻ thù ngoại xâm. Từ đó nhà văn đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm của nhân vật. Vì thế nhân vật hiên lên rất chân thật và cũng rất bi tráng

Ngôn ngữ sử dụng mang đậm màu sắc hơi thở và sự sống Tây Nguyên. Đặc biệt khi miêu tả Tnú nhà văn có sự sắp xếp thời gian rất sáng tao có sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại. Vì thế nhà văn đã kéo các sự kiện lịch sử diễn ra trong quá khứ đến gần với hiện tại đem đến cho người đọc cảm giác câu chuyện đó vừa mới diễn ra.


Cảm nhận vẻ đẹp con người Tây Nguyên qua truyện ngắn “RỪNG XÀ NU” của Nguyễn Trung Thành.

Vẻ đẹp của người dân Tây Nguyên được miêu tả qua các nhân vật cụ thể như cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng. Tất cả nhân vật này đều có vẻ đẹp chung đó là lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc trung thành tuyệt đối với cách mạng, gan góc, có khí phách hiên ngang không khuất phục trước kẻ thù. Tuy nhiên bên cạnh những vẻ đẹp chung mỗi thế hệ người dân Tây Nguyên lại có vẻ đẹp riêng.

Cụ Mết là người đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ cha anh. Một già làng sáng suốt mưu trí, một con người còn in dấu vết siêu phàm của các ông già trong các truyện thần thoại kì ảo. Nói như Nguyễn Trung Thành “ ông là cội nguồn là Tây Nguyên thời đất nước lớn lên”  còn trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử bao trùm nhưng không che lấp đi sự nối tiếp và mãnh liệt ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và tự giác hơn của các thế hệ sau”. Như vậy cụ Mết đại diện cho thế hệ thứ nhất của người dân Tây Nguyên đã từng chống thực dân pháp nay tuổi đã cao nhưng vẫn cùng con cháu chiến đấu chống đế quốc Mĩ.

Cụ Mết già nhưng vẫn khỏe. Vẻ đẹp của cụ Mết được cảm nhận qua con mắt của Tnú. Sau 3 năm anh đi lực lượng trở về, thời gian ấy có biết bao nhiêu thay đổi nhưng cụ Mết dường như không thay đổi theo thời gian. “Bàn tay nặng trịch của cụ Mết nắm chặt lấy vai anh như một kìm sắt”. Bàn tay đó như truyền cho Tnú sức mạnh, truyền cho anh cả niềm tin. Đúng là cụ Mết vẫn không thay đổi “ ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và sếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng. Ông cởi trần ngực căng như cây xà nu lớn”. Miêu tả cụ Mết nhà văn đã sử dụng nhiều từ “ vẫn” để khẳng định vẻ đẹp của nhân vật cụ Mết trường tồn với thời gian, cụ là chỗ dựa vững chắc cho dân làng Xô Man về tinh thần để chống giặc, cụ là cây xà nu lớn nhất của núi rừng Tây Nguyên.

Cụ Mết không chỉ có ngoại hình rất ấn tượng mà cụ còn có cách nói rất đặc biệt. Gặp Tnú cụ đã phá lên cười “ Hà hà! Đeo cả tôm xông về à anh lực lượng. Được!”. Cụ Mết không bao giờ khen tốt, giỏi, lúc nào vừa ý nhất cụ chỉ nói được mà thôi. Cách nói của cụ Mết tạo động lực cho con cháu phải luôn phấn đấu không được hài lòng với những gì đang có vì cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước còn gian khổ và lâu dài cho  nên từng ngày, từng tháng con cháu phải phấn đấu hết mình.

Mặc dù cách nói của cụ Mết thể hiện thái độ rất nghiêm khắc nhưng cụ Mết lại là người sống rất tình cảm. Trước hết là tình cảm của cụ dành cho Tnú. Tnú mồ côi cha mẹ từ lúc nhỏ, cụ Mết và làng Xô Man đã đùm bọc và cưu mang Tnú. Vì thế tình cảm giữa cụ Mết và Tnú như tình cảm cha con. Vì thế đón Tnú đi lực lượng trở về cụ Mết đã đưa Tnú một món đặc biệt đó là món canh tàu môn bạc hà nếu nấu lạt trong ống nứa và có thêm mấy con cá chua. Cụ Mết muốn dành cho Tnú một sự quan tâm và chăm sóc đặc biệt nhất tình cảm.

Tình cảm cụ Mết còn dành cho cả dân làng Xô Man, Nguyễn Trung Thành đã chọn được một chi tiết rất cảm động để nói về tình cảm của người già làng. Khi Dít đi đại hội chiến sĩ thi đua về được huyện thưởng cho một lon muối và chia đều cho mỗi bếp một phần. Cụ Mết không ăn mà chỉ ăn lạt bởi vì muối đó để dành cho những người đau. Còn khi Tnú múc cho cụ một muỗng muối cụ đã chia cho mỗi người mấy hạt họ ăn sống ngậm rất lâu trong miệng để nghe chất  mặn đậm đà tan dần phải chăng chất muối mặn mà đậm đà mà cụ Mết dành cho dân làng Xô Man cũng chính là tình cảm sâu nặng yêu thương gắn bó cụ Mết dành cho buôn làng và sâu xa hơn nữa đó là tình cảm của nhân dân giàng cho cách mạng.

Yêu mến Tnú và người dân Xô Man bao nhiêu cụ Mết càng tự hào về núi rừng Tây Nguyên bấy nhiêu, kìa ăn đi chớ, gạo người làng Strá mình làm ra ngon nhất núi rừng này đấy con ạ.

Yêu mến tự hào về con người vùng đất Tây Nguyên cụ Mết là người lưu giữ và truyền lại lịch sử cho con cháu. Cụ đã kể lại biết bao lần câu chuyện bi hùng của cuộc đời Tnú và lịch sử đau thương anh dũng của làng Xô Man. Bởi vì người già thì đã biết cả rồi, thanh niên có đứa biết có đứa chưa biết, còn bọn con nít thì chưa biết lịch sử của dân làng. Cho nên người gia chưa quên câu chuyện phải kể lại cho người trẻ người chết đã quên rồi thì để cái nhớ lại cho người sống. Vì thế kể xong câu chuyện cụ Mết luôn căn dặn con cháu “ Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi thương nước hãy lắng mà nghe mà nhớ, sau này tau chết rồi chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe. Với lời truyền dạy thiêng liêng này tất cả người dân làng Xô Man đều im lặng, chăm chú lắng nghe, đặc biệt là bọn trẻ con chúng nghe như uống từng lời ông cụ, mắt đứa nào cũng dán vào miệng ông. Không khí này cũng giống như không khí hát khan, kể khan thâu đêm suốt sáng của đồng bào Tây Nguyên qua biết bao thế kỉ.

Cụ Mết là người lãnh đạo phong trào cách mạng của dân làng Xô Man. Vào những của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, bọn giặc khủng bố đàn áp rất dã man tinh thần yêu nước của người dân Tây Nguyên nhiều thế hệ người dân nơi đây đã ngã xuống như bà Nhan bị chặt đầu, anh Xút bị treo cổ trên cây vả đầu làng nhưng khong một ai run sợ, Tnú và Mai và những thiếu niên rất thông minh nhanh nhẹn đã vào rừng làm liên lạc cho anh Quyết. Trong một lần Tnú chuẩn bị vượt sông Đắc Năng để đưa thư cho anh Quyết gửi về huyện thì bị lọt vào ô phục kích của bọn giặc chúng đã giam giữ Tnú trong nhà ngục Kon Tum , tra tấn đánh đập suốt từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều nhằm bắt Tnú phải khai ra “ cộng sản đâu” . Mặc dù lưng Tnú dọc ngang vết chém của kẻ thù nhưng Tnú vẫn kiên quyết đặt tay lên bụng mình mà nói “ ở đây này”. Sau đó Tnú đã vượt ngục trở về lúc này anh Quyết đã hi sinh. Dưới sự lãnh đạo của cụ Mết, Tnú cùng với dân làng Xô Man đã vào rừng mài vũ khí , chuẩn bị đứng lên đánh giặc

Nhận được tin Tnú vượt ngục trở về cùng với làng Xô Man mài vũ khí chuẩn bị đánh giặc, bọn giặc càng điên cuồng chúng điên cuồng, chúng đã bắn và uy hiếp tinh thần của Dít. Sau đó chúng tra tấn, đánh đập Mai và con cho đến chết. Tnú nhảy vào cứu vợ con, bị bọn giặc đốt 10 đầu ngón tay. Cụ Mết đã ra lệnh đồng khởi “ Chém! Chém hết”. Mệnh lệnh của cụ ngắn gọn nhưng có sức vang động khắp núi rừng Tây Nguyên: “ cụ Mết chống giáo xuống sàn, tiếng nói vang vang thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già người trẻ, đàn ông, đàn bà mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!

Theo mệnh lệnh của cụ Mết tất cả dân làng Xô Man đã cầm vũ khí đứng lên đánh giặc, khói thuốc nổ căm thù chất chứa trong lòng đã bùng cháy dữ dội và trong phút chốc xác của 10 tên lính đã nằm ngổn ngang quanh đống lửa xà nu. Dưới sự lãnh đạo của cụ Mết phong trào cách mạng của làng Xô Man đã có sự chuyển biến quan trọng từ gian đoạn phòng thủ chuẩn bị lực lượng sang giai đoạn tấn công

Cụ Mết giàu kinh nghiệm trong khi tiếp xúc với kẻ thù. Cụ Mết đã cùng Tnú chứng kiến bi kịch đau thương nhất của gia đình Tnú nhưng cụ Mết cũng như Tnú chỉ có 2 bàn tay trắng cho nên không thể đánh giặc nhưng Tnú thì khác, anh vừa đau đớn vừa bất lực anh chồm dậy muốn nhảy xô vào giữa bọn lính để cứu vợ con vì bây giờ mắt anh là 2 cục lửa lớn. Nhưng cụ Mết không cho bởi vì nếu chỉ có 2 bàn tay không mà xông vào đánh giặc thì chắc chắn Tnú chỉ là bó đuốc trong tay bọn giặc hung tàn mà thôi. Đây là một kinh nghiệm , một chân lí mà cụ Mết đã đúc kết qua 2 cuộc kháng chiên chống Pháp và chống Mĩ

Với kinh nghiệm quý báu ấy cụ Mết là người phát ngôn cho chân lí cách mạng của nhân dân. Cụ khẳng định đinh ninh: “Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi bay còn sống phải nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Lời căn dặn của cụ Mết được diễn đạt một cách ngắn gọn giản dị qua những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng và trong những tương phản. Chúng nó là cách mà cụ Mết dùng để chỉ kẻ thù, cả bọn bán nước và cướp nước. Còn mình là lời tự xưng của cụ Mết có ý nghĩa chỉ chung dân làng Xô Man cộng đồng Tây Nguyên và với mọi người yêu nước. Súng và giáo đều là những hoán dụ chỉ vũ khí và vật chất nhưng nếu súng tượng trưng cho vũ khí hiện đại thì giáo tượng trưng cho vũ khí thô sơ tự tạo. Trong hình thức tương phản và cách nói giản dị thô sơ mộc mạc cụ Mết đã thể hiện một tư tưởng lớn, phải dùng vũ khí đáp lại vũ khí phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực hung bạo của kẻ thù. Nó kín đáo khẳng định tầm quan trong của vũ khí của vật chất, đây cũng là tư tưởng lớn lao của Các Mác: “ vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí lực lượng vật chất mới đánh đổ được những lực lượng vật chất”. Lời khẳng định của cụ Mết đã thể hiện một quy luật của phong trào đấu tranh cách mạng, có áp bức, có đấu tranh. Đây là chân lí được rút ra từ mảnh đất Tây  Nguyên thẫm máu và nước mắt. Đó cũng là chân lí lịch sử của cuộc chiến tranh vệ quốc.

Tóm lại cụ Mết tượng trưng cho vẻ đẹp của những con người đã trải nghiệm nhiều trong chiến tranh giàu kinh nghiệm khi tiếp xúc với kẻ thù. Chính ông là cây xà nu to nhất, vững chắc nhất của núi rừng Tây Nguyên mà Nguyễn Trung Thành đã từng so sánh.

Nhân vật Tnú chính là người kế cận cụ Mết. Tnú mưu trí sáng tạo ngay từ tuổi thiếu niên Tnú vào rừng cùng Mai nuôi cán bộ làm liên lạc đưa thư đưa tài liệu  cho anh Quyết mặc dù Tnú học cái chữ  rất hay quên. Khi học đến chữ i nó không nhớ nổi chữ chi tròn tròn mà lại có cái móc và chữ chi có cái bụng to to đứng sau chữ đó nữa. Nhưng khi đi đường rừng Tnú có cái đầu sáng lạ lùng, nó không bao giờ đi theo đường mòn bởi vì đi theo đường bằng phẳng để bị bọn giặc hay bao vây khắp các ngả. Vì thế Tnú trèo lên một cây cao  nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi. Còn khi đi đường sông Tnú không thích lội qua chỗ nước êm mà cứ lựa chọn chỗ thác mạnh mà bơi ngang rồi cưỡi lên thác băng băng như một con cá Kình. Điều đó cho thấy Tnú là một con người rất linh hoạt mưu trí và sáng tạo đồng thời ưa thích mạo hiểm. Vì vậy bọn giặc có bao vây  khắp các ngả đường cũng không thể thắng nổi sự thông minh sáng tạo của Tnú.

Tnú không chỉ thông minh sáng tạo, mạo hiểm mà Tnú còn rất dũng cảm. Trong cuộc đời Tnú đã bị giặc bắt 2 lần, lần thứ nhất khi anh vừa quấn lá thư anh Quyết gửi lên huyện vào ngọn lá dong định vượt qua sông Đắc Năng thì bị họng súng của giặc chìa vào tai lạnh ngắt, Tnú đã nuốt lá thư để đảm bảo an toàn cách mạng. Nhưng sau đó ánh bị giặc bắt và giam ở nhà ngục Kon Tum. Bọn giặc đã tra tấn Tnú rất dã man từ sáng đến trưa từ trưa đến chiều và từ chiều đến tối nhằm bắt Tnú khai ra “ cộng sản đâu”. Mặc dù lưng Tnú dọc ngang những vết dao chém của kẻ thù ở những chỗ vết thương đó máu ứa ra tím thẫm như nhựa xà nu nhưng Tnú vẫn đặt tay vào bụng mình và nói “ ở đây này”. Câu nói thể hiện tinh thần gan dạ đến bất khuất hiên ngang của Tnú . Đó là tinh thần “ uy vũ bất khuất” mặt khác còn thể hiện lòng trung thành tuyệt đối của Tnú với cánh mạng. Chừng nào Tnú còn sống chừng nào còn những con người Tây Nguyên thì Đảng còn được bảo vệ bằng cả trái tim và tấm lòng của họ . Sau đó, bằng tinh thần dũng cảm của mình Tnú đã vượt ngục Kon Tum và trở về làng Xô Man dưới sự lãnh đạo của cụ Mết đêm đêm đã mài vũ khí để chuẩn bị đánh giặc. Nhận được tin này bọn thằng Dục càng điên cuồng, chúng đem quân đến bắt Tnú vì sợ Tnú làm loạn núi rừng này. Cụ Mết, Tnú và thanh niên đã phải lánh vào rừng không bắt được Tnú bọn thằng Dục đã giở những thủ đoạn tàn nhẫn chúng bắt và khủng bố uy hiếp tinh thần của Dít: bắt sượt qua tai, bắn xén tóc, bắn cày đất xuống đôi chân nhỏ của Dít nhưng không làm gì được con bé. Chúng chuyển sang đánh đập mẹ con Mai cho đến chết

Với đôi bàn tay, Tnú đã xô vào giữa bọn lính anh bị giặc đốt 10 đầu ngón tay. Đúng là không gì đượm bằng nhựa xà nu, một ngón tay Tnú bốc cháy, 10 đầu ngón tay của Tnú trở thành ngọn đuốc sống. Chúng muốn đốt hệ thần kinh yêu nước của Tnú và dân làng Xô Man. Vì thế lửa không chỉ cháy ở 10 đầu ngón tay mà lửa còn cháy trong ngực trong bụng cháy cả trong ruột của Tnú. Vậy mà Tnú vẫn không thèm kêu vang bởi anh nhớ tới lời dặn dò của anh Quyết người cán bộ trung kiên: “ Người cộng sản không thèm kêu van”. Đây là tinh thần dũng cảm đến phi thường của Tnú của người anh hùng đất rừng Tây Nguyên.

Điều đáng nói hơn nữa là  với đôi bàn tay cụt Tnú vẫn đối mặt với kẻ thù và anh đã dùng chính đôi bàn tay tật nguyền của mình để bóp chết thằng Dục khi nó cố thủ trong hầm ngầm chỉ huy.

Như vậy Tnú hội tụ đầy đủ những phẩm chất cao đẹp của một người cán bộ cộng sản mưu trí sáng tạo, dũng cảm kiên cường, gắn bó sâu nặng với bản làng quê  hương. Tuy nhiên anh còn thiếu kinh nghiệm trong tiếp xúc trực tiếp với kẻ thù khi kẻ thù đã cầm vũ khí mình chỉ có 2 bàn tay không thì chắc chắn mình sẽ trở thành ngọn đuốc sống trong tay kẻ thù hung bạo mà thôi.

Dít và Heng là thế hệ trẻ sẽ tiếp tục giữ vững ngọn lửa đấu tranh của dân làng Xô-man. Dít là bí thư chi bộ cũng kiên cường dũng cảm không kém gì Tnú. Ngay từ khi còn nhỏ Dít đã tỏ ra là người gan dạ bị bọn giặc bắn để khủng bố đe dọa và uy hiếp tinh thần của em, ban đầu Dít khóc thét lên nhưng đến viên đạn thứ 10 thì Dít không khóc, nó mở to đôi mắt bình thản nhìn bọn giặc, bình thản như đôi mắt của chị bí thư bây giờ. Như vậy đạn tóm xông của lũ giặc có hung bạo đến đâu khũng không khuất phục được trước tinh thần gan dạ dũng cảm kiên cường của Dít.

Không khuất phục được Dít bọn giặc đã đánh đập chị Mai và cháu nhỏ bằng những trận gậy sắt cho đến chết. Chứng kiến cái chết thương tâm của mẹ con Mai cả làng Xô Man ai cũng khóc kể cả cụ Mết nhưng chỉ riêng có Dít là không khóc, nó hoàn toàn câm lặng, mắt giáo hoảnh và đi giã gạo thay chị suốt đêm. Hành động này của Dít chính là cách biến đau thương thành hành động đợi một cơ hội nhất định con bé sẽ đứng lên và trả thù cho chị.

Lớn lên trở thành bí thư chi bộ Dít rất coi trọng nguyên tắc kỉ luật Đảng. Sau 3 năm Tnú đi lực lượng trở về anh được nhân dân đón tiếp như một người anh hùng nhưng khi Dít gặp Tnú câu đầu tiên chị hỏi là “ đồng chí về có giấy không” . Ban đầu Tnú không hiểu nhưng sau đó hiểu ra Tnú cười ồ và định đùa anh nhớ làng quá trốn về thăm làng một đêm nhưng Tnú không thể đùa vì tất cả mọi người đều im lặng, trang nghiêm chờ đợi và nếu hôm nay Tnú không có giấy chắc chắn theo lệnh của Dít “ Ủy ban phải bắt thôi”. Tnú đã trình giấy có chữ kí của cấp trên. Đến đây Dít đã thay đổi cách xưng hô và thái độ tình cảm. Chị cười gọi Tnú là anh và bày tỏ tình cảm của mình cũng như dân làng “ bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”.

Dít chiếm được tình cảm cũng như sự tín nhiệm của bà con. Khi Dít đến nhà ưng các bà già làng Xô Man đã nhắc nhở bọn con trai “ bọn đàn ông này xê ra một ít cho con Dít nó ngồi với chớ, Dít ơi ngồi đây con”. Đâu phải Dít chiếm vị trí trang trọng ở nhà ưng mà quan trọng hơn cô đã chiếm được tình cả của bà con dân làng, đặc biệt là các em nhỏ đứa nào cũng muốn ngồi gần chị Dít, nhất là bé Heng. Tất cả những gì chị Dít nói ra đều đúng phải thực hiện khi Tnú về làng bé Heng dặn Tnú : “ rửa chân đi nhưng đừng uống nước lạnh về chị Dít phê bình cho đấy”

Tóm lại Tnú và Dít là thế hệ được miêu tả trọn vẹn trong tác phẩm. Tnú là anh bộ đội xa quên 3 năm khi trở về được đón tiếp như  một anh hùng. Còn Dít, ngày Tnú ra đi là một cô gái non nớt nay đã là bí thư chi bộ. Đó là kết quả tất yếu của quá trình rèn luyện qua nhiều thử thách gay go.

Bé Heng là nhân vật phụ đại diện cho vẻ đẹp thế hệ măng non của núi rừng Tây Nguyên. Nếu thiếu nhân vật bé Heng, bức tranh vẻ đẹp anh hùng của các thế hệ người dân Tây Nguyên sẽ không hoàn chỉnh. Ngay khi nhỏ tuổi đã mang dáng dấp của một anh hùng. “ Nó đội một cái mũ xụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc một chiếc áo bà ba dài phết đít, súng đeo chéo ngang lưng ra vẻ một người lính thực sự nhưng bên trong vẫn đóng khố”à chân dung bé Heng rất ngộ nghĩnh ngây thơ và đáng yêu. Nhưng điều đáng yêu nhất của bé Heng là rất thông minh, em thuộc từng hầm chông, từng cứ điểm, từng giàn thô. Hình ảnh bé Heng gợi ta liên tưởng tới Tnú ngày nhỏ, ngoài ra bé Heng cũng rất háo hức nhiệt tình tham gia cách mạng. Bé đã nhận nhiệm vụ đón người anh hùng Tnú trở về làng, đấy vừa là một nhiệm vụ, vừa là một sứ mệnh vinh quang.

Thế hệ trẻ Tây Nguyên là thế hệ nhiệt thành yêu nước sớm giác ngộ cách mạng, hăng hái nhận nhiệm vụ, gan góc trung thành chiến đấu hết mình, không sợ hi sinh gian khổ, được sự tín nhiệm của bà con và các thế hệ ông cha. Mặc dù thế hệ này thiếu kinh nghiệm trong tiếp xúc trực tiếp với kẻ thù nhưng qua “Rừng xà nu”, Nguyễn Trung Thành vẫn khẳng định họ là lực lượng nòng cốt của cách mạng.

Qua nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít và bé Heng nhà văn Nguyễn Trung Thành đã ngợi ca các vẻ đẹp của các thế hệ người dân Tây Nguyên. Mặc dù mỗi thế hệ có một đặc điểm riêng nhưng họ đều là những người yêu nước, căm thù giặc, gan góc, trung thành tuyệt đối với cách mạnh, vẻ đẹp của họ cũng chính là vẻ đẹp của nhân dân miền Nam trong những năm chống Mĩ  đau thương mà anh dũng

Để xây dựng thành công các thế hệ người dân Tây Nguyên, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nên những nhân vật mang tính biểu tượng cao. Mỗi nhân vật là đại diện cho một thế hệ chứ không phải đại diện cho cái riêng tư cá nhân mình. Điều này đã làm nên vẻ đẹp sử thi, bi tráng và cảm hứng lãng mạn của thiên truyện.


Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của truyện ngắn “RỪNG XÀ NU”.

Khuynh hướng sử thi luôn hướng tới phản ánh những vấn đề lớn lao, những sự kiện, biến cố quan trọng, có ý nghĩa sống còn với cả một cộng đồng, một dân tộc, ngợi ca chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật chính thường là những đại diện ưu tú của cộng đồng, tiêu biểu cho lý tưởng và khát vọng của cộng đồng, gắn bó số phận mình với số phận cộng đồng, thể hiện và kết tinh phẩm chất cao đẹp của cộng đồng. Con người chủ yếu được khám phá ở bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, ý thức chính trị với lẽ sống và tình cảm lớn. Cái riêng tư nếu có cũng chỉ để nhấn mạnh trách nhiệm và tình cảm cá nhân đối với cộng đồng. Lời văn sử thi thường có giọng điệu ngợi ca, trang trọng, ngôn từ thường mang tính cách điệu, đẹp một cách tráng lệ hào hùng.

Tính sử thi của tác phẩm “Rừng xà nu” được thể hiện trước hết ở việc lựa chọn đề tài của tác phẩm, tác phẩm này được đề cập đến vấn đề chung của cộng đồng xã hội, của đất nước. Đó là cuộc đấu tranh quyết liệt của đồng bào Tây Nguyên cũng như của dân tộc ta với bọn đế quốc và tay sai. Từ đề tài này truyện ngắn “Rừng xà nu” đã thể hiện một chủ đề mang tính sử thi đó là chân lí đấu tranh cách mạng chân lí giản dị mà sâu sắc của thời đại được thể hiện qua lời phát biểu của cụ Mết: “ chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”. Bạo lực cách mạng mới đánh đổ được bạo lực phản cách mạng, đấu tranh vũ trang để giải phóng nhân dân, đó là con người tất yếu

Tư tưởng của tác phẩm mang tính sử thi. Nguyễn Trung Thành đã lí giải cuộc đời số phận của nhân vật chính trong mối quan hệ với lịch sử của cả cộng đồng. Mâu thuẫn trong gia đình Tnú với kẻ thù đã đẩy xung đột nông dân cách mạng với kẻ thù trở thành gay găt và quyết liệt buộc phải có một cuộc đồng khởi để đánh lại giặc ngoại xâm giành lại cuộc sống tự do cho nhân dân. Đây là con đường tất yếu của lịch sử dân tộc

Các nhân vật: nhân vật mang tính sử thi phải đại diện cho phẩm chất, sức mạnh, lí tưởng của cả cộng đồng. Trong “Rừng xà nu”, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công một tập thể anh hùng những anh hùng được kể từ trong đó đều có tính đại diện cao mang trong mình hình ảnh cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong rừng xà nu rất đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có nét riêng cho cộng đồng chung. Tất cả họ đều giống nhau ở một phẩm chất cơ bản: gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạnh. Dĩ nhiên, hình tượng văn học nào cũng là sự thống nhất giữa cái cá biệt và cái tổng quát. Nhưng ở rừng xà nu cảm hứng về cái chung mang tính chất chi phối

Hình tượng rừng xà nu trong tác phẩm cũng mang tính chất sử thi đây là bức tranh hoành tráng về thiên nhiên trong đau thương mà vẫn rất anh dũng mặc dù bị trúng bom đại bác của giặc hàng vạn cây không còn cây nào không bị thương nhưng chúng vẫn đổ ào ào như một trận bão đồng thời vẫn chứng tỏ sức sinh sôi nảy nở đến lạ thường. Bên cạnh một cây mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng đến bầu trời.

“Rừng xà nu” còn miêu tả các sự kiện, các nhân vật anh hùng từ cái nhìn chiêm ngưỡng khâm phục cái nhìn mà Chế Lan Viên gọi là cái nhìn của “con mắt bạch đằng, con mắt Đống Đa”. Tất cả các chi tiết đời thường ít được nhắc tới, nhà văn chỉ tâm đắc với những chi tiết nào có khả năng làm phát lộ được phẩm chất anh hùng của  nhân vật. Tả cụ Mết nhà văn chú ý tới giọng nói ồ ồ dội vang trong lồng ngực của cụ tươrng như trong tiếng cụ nói có âm vang của tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng của núi rừng, của lịch sử. Mỗi lời cụ thốt ra kết tinh trải nghiệm của cả một cuộc đời nó cô đúc sâu sắc như những  chân lí. Ngay cả cuộc đời Tnú một cuộc đời trải ra trong chính thời hiện tại cũng đã được lịch sử hóa và nhuốm màu huyền thoại. Đêm đêm bên bếp lửa nhà ưng cụ Mết đã kể chuyện anh cho lũ làng nghe, anh đã trở thành niềm tự hào của làng trở thành biểu tượng sống động của người anh hùng được tất cả mọi người ngưỡng vọng học tập

Ngôn ngữ của tác phẩm mang tính chất trang trọng, giàu hình ảnh có tính biểu tượng cao và giàu gợi từ gợi cảm. Giọng điệu tác phẩm mang âm hưởng hùng tráng lay động và khích lệ mạnh mẽ tình cảm của người đọc. Nguyễn Trung Thành thường sử dụng thủ pháp nghệ thuật so sánh  và cường điệu nhằm khắc họa nổi bật hình ảnh những nhân vật tượng trưng cho phẩm chất cao đẹp và ý chí khát vọng của cả cộng đồng. Kết cấu đầu cuối tương ứng của tác phẩm cũng góp phần làm nên tính sử thi của thiên truyện.

Trong chiến tranh con người Việt Nam phải trải qua nhiều đau thương mất mát nhưng luôn hướng tới tương lai hạnh phúc và niềm vui đây chính là cảm hứng lãng mạn của nhiều tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 và cũng là cảm hứng chủ đạo của“Rừng xà nu”.

Cảm hứng lãng mạn trước hiết được thể hiện qua câu truyện rất thơ mộng của Tnú và Mai. Lúc nhỏ Mai và Tnú vào rừng làm liên lạc đưa thư cho anh Quyết, được anh Quyết dạy chữ cách mạng cho nhưng Tnú rất nhanh quên. Tnú đã đập bể cái bảng bỏ ra suối ngồi lì ở đó một ngày rồi lấy đá đập vào đầu cho chảy máu ra, được anh Quyết dỗ dành, dạy bảo, Tnú đã gọi Mai ra hốc đá hỏi Mai cái chữ. Đây là kỉ niệm tuổi thơ ngây thơ  trong sáng và ngọt ngào. Nhất là khi Mai thành thiếu nữ đón Tnú ở ngã ba đường rừng vừa vượt ngục trở về Mai đã cầm bàn tay của Tnú vừa yêu thương vừa xấu hổ và hai người đã trao cho nhu mối tình đầu. Đây là câu truyện đẹp như ánh trăng rằm lung linh tỏa sáng núi rừng Tây Nguyên. Đây là yếu tố góp phần làm nên vẻ đẹp lãng mạn của thiên truyện.

Bức tranh thiên nhiên rừng xà nu vừa mang vẻ đẹp bi tráng và giàu chất thơ. Đoạn văn miêu tả cây xà nu hướng về ánh sáng mặt trời thật lãng mạn “ Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng, thứ ánh sáng từ trong rừng từ trên cao rọi xuống từng luống lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từng nhựa cây ứa ra. Thơm mỡ màng”

Nhà phê bình văn học Đỗ Kim Hồi nhận xét : “Nguyễn Thành Trung đã không dè xẻn chất vàng son của ngôn từ quyết làm cho bức tranh về rừng xà nu phải trở thành tấm sơn mài lộng lẫy.”

Như vậy kẻ thù càng tàn bạo man dợ bao nhiêu thì thiên nhiên Tây Nguyên càng chứng tỏ sức mạnh của mình bấy nhiêu. Đây chính là cảm hứng lãng mạn của “Rừng xà nu” và của văn học Việt Nam một thời.

Truyện ngắn “Rừng xà nu” là một trong những sáng tác thành công nhất về cuộc sống con người Tây Nguyên, là tác phẩm thể hiện đậm nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành trong việc miêu tả, kể chuyện, lựa chọn ngôn ngữ, xây dựng hình tượng yếu tố chịu sự chi phối sâu sắc của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. “Rừng xà nu” là bản anh hùng ca của thời chống Mĩ, là tiếng nói của lịch sử và thời đại, không chỉ ca ngợi ý chí bất khuất, tinh thần chiến đấu ngoan cường của người dân Tây Nguyên mà còn lí giải con đường giải phóng của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến chống Mĩ cứu nước. Truyện ngắn “Rừng xà nu” là bài ca về tình yêu cuộc sống, là lời nhắc nhở con người hãy làm tất cả vì cuộc sống của đất nước, nhân dân, cũng là của chính bản thân mình.


Phân tích vẻ đẹp hình tượng các nhân vật trong truyện ngắn “RỪNG XÀ NU” (Nguyễn Trung Thành).

Tây Nguyên hùng vĩ núi non, Tây Nguyên bất khuất kiên cường với những con người bộc trực kiên trung một lòng đi theo cách mạng. Chính vùng đất sản sinh ra vô số những anh hùng dân tộc đi vào sử sách thì nơi đây cũng chính là vùng đất mang đến cảm hứng sáng tác cho tác giả Nguyễn Trung Thành. Trong những năm tháng của mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Tây Nguyên khơi nguồn cảm hứng cho ông viết truyện ngắn Rừng xà nu, một truyện ngắn xuất sắc của văn học thời chống Mĩ.

Rừng xu nu là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên với sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung nhiệt tình, mưu trí và kiên cường. Nó chỉ là truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực to lớn mà giá trị lịch sử khẳng định.

Rừng xà nu viết về những anh hùng ở làng Xô Man của người Strá trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ gắn với hình tượng cây xà nu của Tây Nguyên. Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà nu – một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây Nguyên.

Và đặc biệt đó cũng là một rừng xà nu bất chấp đạn bom, vượt lên sự hủy diệt tàn bạo để tiếp nhận ánh nắng mặt trời duy trì sự sống của mình, rừng xà nu tràn trề sức sống cho dù đại bác của bọn giặc “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy” dồn dập nã chết chóc đau thương vào nó. Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu đều mang dụng ý của tác giả Nguyên Ngọc.

Suốt trong quá trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại tạo cảm giác như một điệp khúc, gần 20 lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu… Mọi thứ dường như đều xoay quanh loại cây đặc biệt này. Người đọc không khó nhận ra ý nghĩa của rừng xà nu là để nói lên sức sống bền vững, quật khởi của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất.

Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, nhất là các hình ảnh “đồi xà nu” (4 lần), “rừng xà nu” (5 lần), với “hàng vạn cây” “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”.

Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện như cách mở đầu của bức tranh đấu tranh quyết liệt của dân làng và nó cũng là một hình ảnh mang tính dự báo. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân làng Xô Man ngã xuống.

Tác giả Nguyễn Trung thành đã có dụng ý miêu tả rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ rất giàu chất thơ, chắt lọc và tinh tế ở một thứ ngôn ngữ vừa tả vừa gợi, mở ra những liên tưởng phong phú cho người đọc. Hình ảnh rừng xà nu ở đây vừa là hình ảnh thực một rừng cây “ham ánh sáng mặt trời”, vừa là hình ảnh có nghĩa tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau thương, bất khuất, kiên cường trong những ngày đồng khởi chống Mĩ. Kết hợp bút pháp đặc tả phối hợp với thủ pháp nhân hóa đã phát huy tối đa hiệu lực cua nó. Rừng xà nu hiện lên như một người bạn trung thành che chở cho dân làng Xô Man, như những con người đẹp của buôn làng. Và có thể nói rừng xà nu chính là biểu tượng về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của con người Việt Nam.

Truyện ngắn hiện lên như một bức tranh tái hiện chân thực toàn bộ cuộc chiến đấu đầy gian khó nhưng không thiếu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mĩ, nhà văn tập trung miêu tả sự trưởng thành một thế hệ tiếp nối, phát huy truyền thống anh hùng của cha ông và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc Mĩ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú và Dít. Sự trưởng thành của họ gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man.

Tnú nhân vật chính của “Rừng xà nu” đã mồ côi cha mẹ từ nhỏ, người con của núi rừng Tây Nguyên ấy lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng, nuôi dạy khôn lớn. Đó là người anh hùng dân tộc lớn lên, trưởng thành và kiên cường bất khuất từ trong lòng của nhân dân, của dân tộc.

Tnú đến với cách mạng ngay từ khi còn rất nhất vào thời điểm của những ngày gian khổ, ác liệt nhất khi mà Mĩ Diệm đang ngày đêm khủng bố cách mạng ở khắp mọi nơi. Chính Tnú đã chứng kiến cảnh đau thương của dân làng. Bọn giặc “treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chỉ vì họ là những người dũng cảm, dám nuôi giấu cán bộ cách mạng.

Khi Tnú vào rừng nuôi cán bộ, tiếp nhận tri thức, lẽ sống qua sự chỉ bảo của anh cán bộ Quyết. Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc phục kích, bắt được, chúng dẫn về làng, tra tấn đủ mọi cách, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém nhưng Tnú vẫn không khai báo, chỉ điềm tĩnh chỏ vào bụng mình để trả lời câu hỏi cùa kẻ thù: “Cộng sản ở đây này”. Câu trả lời ấy đâu chỉ đơn giản là một câu trả lời mà đó là cả một lời thách thức, sự dũng cảm! Và chính lời thách thức ấy, Tnú phải trả giá bằng ba năm tù.

Thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú là một thanh niên, trưởng thành hơn về nhân cách. Anh hiểu rõ nhiệm vụ của mình khi tiếp nhận lời trăng trối của anh Quyết. Anh trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Anh thực hiện ngay lời dặn của anh Quyết “chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná…” chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho cuộc chiến đấu sắp tới. Và hạnh phúc đến với anh trong những ngày đó. Mai, cô bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người bạn đời của anh.

Lại một thử thách nữa đến với Tnú: bọn giặc ở đồn Dác Hà xuống làng Xô Man truy bắt anh, vợ con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trước cảnh giặc tra tấn vợ con. Tnú đành phải ra đối đầu với bọn chúng. Và trong cuộc đối đầu này, phẩm chất kiên cường của anh càng sáng hơn bao giờ hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón tay anh, “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, răng cắn chặt môi, không một tiếng kêu vang, Tnú trừng trừng ném căm giậm vào kẻ thù.

Có thể nói Tnú là hình ảnh của Tây Nguyên đau thương, bất khuất. Sự tàn bạo của kẻ thù đã lên tới tột đỉnh và nhân dân cũng không thể cam chịu sống dưới ách tàn bạo đó. Cho nên, khi tiếng thét căm giận Tnú vang lên, tiếng thét như một lời báo hiệu triệu dân làng cầm vũ khí đứng lên, cả làng Xô Man đứng dậy. “Tiếng giết”, tiếng chân người đạp nhà ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh… Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải phóng cho nhân dân, giải phóng đất nước với một nhận định sâu sắc hơn.

Điều này có thể thấy rõ qua lời tâm sự của Tnú với dân làng sau “ba năm đi lực lượng”. Anh kể rằng anh giết thằng Dục, tên chỉ huy đồn giặc ở Đắc Hà, kẻ đã giết vợ con anh, kẻ dã gieo đau thương cho làng Xô Man và theo anh thằng giặc nào “cũng la thằng Dục cả”. Rõ ràng, với anh chiếu sĩ giải phóng quân Tnú, mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước cũng là mối thù của gia đình, của quê hương anh. Đó là một nhận thức sâu sắc, nhận thức mà Tnú rút ra được từ nỗi đau của bản thân, của buôn làng của đất nước và từ cuộc chiến đấu của quê hương.

Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên xã đội làng Xô Man. Ba năm trước, ngày Tnú ra đi. Dit “còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh không ngủ…”. Vậy mà, khi Tnú trở về, cô bé ấy đã đảm trách những công việc trọng yếu nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kì lạ của Dít không phải ngẫu nhiên mà là quá trình rèn luyện vượt qua thử thách lúc còn nhỏ. Dít là một đứa bé lanh lợi, rất gan dạ. Lần ấy, Dít bị giặc bắt “Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm xong rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai bàn chân nhỏ của Dít. Váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng lẽ giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó giật lên một cái nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng”.

Không chỉ gan góc Dít còn là một cô bé cương nghị. Chứng kiến cái chết đau thương của chị Mai, Dít “lầm lì không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già, đều khóc”. Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Xô Man. Trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng, Dít cũng tỏ rõ là người có bản lĩnh, có sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dít, không khỏi xúc động, nhìn anh với “đôi mắt mở to bình thản trong suốt”. Ấy vậy, chị không quên trách nhiệm của mình khi hỏi “đồng chí có giấy không?”, khi tuyên bố dứt khoát “không có giấy thì không được, ủy ban phải bắt thôi” và sau khi xem giấy của Tnú chị lại nói tiếp “sao anh về có một đêm thôi”. Con người Dít như vậy đó, gan góc, cương nghị, không kém phần tha thiết với quê hương, đành rằng bề ngoài tưởng như chỉ có lạnh lùng bình thản.

Tnú và Dít tiêu biểu cho thế hệ thanh niên làng Xô Man, từ lòng căm thù của họ đến với cuộc chiến đấu của dân tộc và chính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự trưởng thành của họ có cội nguồn của có một mặt là do họ tự vượt mình qua những thử thách lớn lao, mặt khác là do có sự dìu dắt cách mạng của cha ông. Đặc biệt sự trưởng thành của Tnú và Dít được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền thống anh hùng của người Strá. Cụ Mết chính là đại diện cho thế hệ cách mạng đi trước của làng Xô Man.

Cụ là pho sử sống, là chỗ dựa tinh thần của dân làng. Tuy già nhưng “cụ vẫn quắc thước như xưa… ngực cũng như một tấm xà nu lớn… tiếng nói vẫn ồ ồ vang trong lồng ngực”, vẫn sáng suốt ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến đấu của làng. Có lẽ cuộc đời cụ đã nếm trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm quý báu, cho nên cụ luôn luôn nhắc nhở con cháu nhớ tới quá khứ đau thương bất khuất của quê hương.

Chứng kiến cái chết thảm thương của Mai và sự bất lực của Tnú trước sự tra tấn dã man tàn bạo của bọn thằng Dục, cụ Mết càng thấu hiểu: Đối với kẻ thù “chỉ có hai bàn tay trắng, chỉ với bàn tay không” thì không thể nào đối đầu với chúng được, phải cầm vũ khí đứng lên! Bài học này, cụ muốn truyền lại cho thế hệ mai sau: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu. Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo’’. Lời cụ rành rẽ vang lên trong ánh lửa bập bùng ở nhà ưng.

Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyên Ngọc muốn khẳng định vai trò của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ! Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ truyền thống, với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít… có sự trưởng thành lớn lao.

Và không chỉ có lớp người như Tnú, lớp sau Tnú như bé Heng, cũng lớn lên, lớn lên cùng với cuộc chiến đấu ác liệt của làng Xô Man. Với nhân vật bé Heng, Nguyên Ngọc chỉ phác họa vài ba đường nét miêu tả ngoại hình nhưng cũng đủ tạo ra ấn tượng sâu sắc cho người đọc.

Tuổi của bé Heng, lẽ ra, là tuổi đến trường với những trang sách, với những trò chơi vui nhộn nhưng đất nước còn giặc, bé cũng còn nhỏ, bé Heng đã có dáng vẻ của “một người lính thật sự, đội chiếc mũ sụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc vào một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng”. Hơn thế, Heng thuộc từng lớp hầm bẫy, hố chông, trở thành người liên lạc như Tnú năm xưa. Thật là tự hào và tin tưởng với một lớp người như bé Heng! Lớp ấy đang lớn lên, trưởng thành, xứng đáng với thế hệ cha anh.

Đọc Rừng xà nu có cảm tưởng như được xem một bộ phim về số phận một con người với biết bao sự kiện. Truyện bắt đầu từ hiện tại từ cái thời điểm anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú đặt chân lên mảnh đất quê hương ‘‘sau ba năm đi lực lượng” rồi ngược dòng thời gian trở về quá khứ.

Quá khứ cứ hiện dần lên trong sự hồi tưởng của Tnú, trong lời kể của tác giả, trong lời kể của cụ. Những mảng đời quá khứ, những mảng đời hiện tại, cứ đan ngang, soi tỏ cho nhau để cắt nghĩa sự trưởng thành của thế hệ Tnú, sự trưởng thành của làng Xô Man trong cuộc chiến đấu với kẻ thù, để làm nổi rõ chủ đề của truyện, từ nỗi đau riêng và nỗi đau chung, Tnú và làng Xô Man phải cầm vũ khí để tự cứu lấy mình, để giải phóng dân tộc và cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc sinh ra một thế hệ trẻ kế tục xứng đáng với cha ông.

Chính cái tư tưởng này đã chi phối kết cấu của Rừng xà nu. Hệ thống sự kiện trong truyện, chủ yếu được tổ chức theo sự phát triển tâm lí tính cách nhân vật trung tâm, chứ không theo trật tự thời gian thông thường. Tổ chức sự kiện theo cách đó, nhà văn có điều kiện tập trung miêu tả những tình huống gay cấn làm nổi bật tính cách nhân vật, mặt khác cũng phù hợp với ý nghĩa chính luận của tác phẩm.

Hai lần đối đầu trực tiếp với kẻ thù là hai lần Tnú thể hiện rõ phẩm chất kiên cường của anh, tất nhiên tác phẩm này thể hiện ở mỗi lần có khác nhau và có sự phát triển. Sa vào tay giặc khi còn là một cậu bé, Tnú tỏ rõ đức kiên trung quả cảm của mình. Còn lần đối đầu với kẻ thù, Tnú rực sáng kiên cường bất khuất trước bóng đen tàn bạo của kẻ thù.

Khắc họa tính cách nhân vật, Nguyên Ngọc có sở trường trong việc lựa chọn những chi tiết tiêu biểu có ý nghĩa khái quát cao, những chi tiết giàu chất tạo hình, giàu chất thơ. Trong nhận thức của người đọc, sừng sững hình ảnh một cụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết quắc thước, râu dài, mắt sáng, ngực căng như một cây xà nu lớn.

Và cũng xúc động lòng người một cụ Mết ân tình với cháu con lúc trở tay chùi hai giọt nước mắt lớn khi lặng nhìn tấm lưng rộng của Tnú còn ngang dọc những vết thương đã thành sẹo tím. Như vậy nhân vật anh hùng trong Rừng xà nu không chỉ rung cảm người đọc ở sự vượt lên hoàn cảnh khốc liệt của họ mà còn ở những xúc động, những tình cảm thầm kín nơi họ.

Trên những trang viết của mình, Nguyên Ngọc thường trải những cảm xúc trữ tình của ông về con người, đất nước quê hương. Giọng văn của Rừng xà nu đằm thắm chất trữ tình, khi trầm hùng theo ánh lửa chập chờn ở nhà nhưng trong lời kể trang nghiêm xúc động về quá khứ đau thương của cụ Mết, khi tha thiết tuôn chảy theo dòng hồi tưởng về người thân, theo dòng suy tưởng về quê hương của Tnú… lời văn của Rừng xà nu giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, nhiều đoạn văn trau chuốt, óng mượt như ngôn ngữ của một bài thơ (ví dụ: đoạn mở đầu tác phẩm). Chính cái vẻ của lời văn đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.

Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lại lấy tên là “Rừng xà nu”… Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng chủ đề của truyện “Rừng xà nu” thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng thêm bất tử.


MỘT SỐ ĐỀ LUYỆN TẬP

Đề 1: Trong tác phẩm Rừng xà nu nhà văn Nguyễn Trung Thành đã phát biểu một chân lí giản dị mà sâu sắc của thời đại qua lời kể của cụ Mết: “ chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo” em hiểu câu nói trên như thế nào hãy chứng minh qua tác phẩm Rừng xà nu.

Đề 2: Có ý kiến cho rằng : Ở Tnú không có vấn đề tìm đường, nhận đường như nhân vật A Phủ. Câu chuyện về Tnú được mở ra từ chính câu chuyện  về A Phủ dần khép lại. Anh/ chị hãy so sánh hai nhân vật A Phủ (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) và Tnú (Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành) để làm sáng tỏ ý kiến trên.

Đề 3: Về nhân vật Tnú trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, có ý kiến cho rằng: Tnú là con người trung thực, gan dạ, dũng cảm, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Ý kiến khác lại khẳng định: Tnú là con người chan chứa tình yêu thương. Từ cảm nhận về hình tượng nhân vật Tnú, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên.

Đề 4: Phân tích ý nghĩa vừa cụ thể vừ khái quát của hệ thống nhân vật và hình ảnh rừng xà nu trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang