Quê hương
(Tế Hanh)
“Chim bay dọc biển đem tin cá[1]”
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,
Dân trai tráng[2] bơi thuyền đi đánh cá:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã[3]
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm trương, to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe[4] về.
“Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe”,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
Chú thích.
[1] Tác giả chú thích: “Câu thơ của phụ thân tôi”.
[2] Trai tráng: trai trẻ, khoẻ mạnh.
[3] Tuấn mã: ngựa đẹp, khoẻ và phi nhanh.
[4] Ghe (tiếng địa phương): thuyền.
1939
Nguồn:
1. Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập 7: Văn học giai đoạn 1900-1945), Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Khoa học xã hội, 2004
2. Tuyển tập Tế Hanh, NXB Văn học, 1987
3. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 2007