Phân tích truyện ngắn Hai cây phong (Trích “Người thầy đầu tiên” Ai-ma-tốp)
- Mở bài:
Hai cây phong là phần đầu của truyện tả cảnh sắc làng Kur-ku-rêu, hồi tưởng lại kỉ niệm êm đềm về hai cây phong của chốn quê dào dạt tâm hồn đứa con đi xa về thăm nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Trích đoạn này đã thể hiện một cách đằm thắm, thiết tha tình yêu cố hương, biểu lộ lòng biết ơn người thầy đầu tiên đã trồng cây và trồng nơi thảo nguyên hoang vu mênh mông. Cảnh sắc làng Kur-ku-rêu, chốn quê thân yêu của nhân vật “tôi” – họa sĩ, sau những năm tháng đi xa trở về thăm làng có nhiều đổi thay nhưng hình ảnh hai cây phong là không có gì thay đổi.
- Thân bài:
Phần đầu trích đoạn nói về cảnh sắc làng Kur-ku-rêu, chốn quê thân yêu của nhân vật “tôi” – họa sĩ, sau những năm tháng đi xa trở về thăm làng. Những tiếng: “Làng Kur-ku-rêu chúng tôi”… “phía dưới làng tôi…”, “phía trên làng tôi” cất lên thật gợi cảm, đầm ấm và mến thương biết bao! Làng ở “ven chân núi” trên một cao nguyên.
Cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, bao la. Có “thung lũng đất vàng”, có cánh thảo nguyên Ca-dắc-xtan “mênh mông”. Có khe nước “ào ào từ miền ngách đả đổ xuống”, có rặng núi Đen và con đường sắt “băng qua đồng bằng chạy tít đến tận chân trời phía tây”. Cảnh sắc quê hương được cảm nhận bằng những hình ảnh đường nét đậm nhạt, cao thấp, gần xa làm hiện lên một không gian nghệ thuật rất đẹp với bao yêu mến tự hào của một đứa con đối với cố hương, của một họa sĩ tài hoa trước thiên nhiên kì thú. Sau câu chữ và cảm xúc dâng trào với bao bồi hồi thương nhớ.
Nhớ làng Kur-ku-rêu đối với đứa con xa quê trở về là nhớ hai cây phong trên đồi cao ở đầu làng. Họa sĩ biết hai cây phong “từ thuở bắt đầu biết mình”, một sự gắn bó thiết tha với cả một đời người. Hai cây phong lớn “như những ngọn hải đăng đạt trên núi ” từng gây ân tượng đối với bất cứ ai, dù “đi từ phía nào ” đến thăm làng Kur-ku-rêu. Riêng đối với họa sĩ, mồi lần về thăm quê nhà đã “từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy ” và tự coi đó là “bổn phận đầu tiên” của mình. Với họa sĩ, tình yêu quê hương đã chan hòa, đã gắn bó với tình thương nhớ hai cây phong lớn đầu làng.
Nhớ hai cây phong đối với họa sĩ là nhớ “với một nỗi buồn da diết”; nên càng về gần tới làng lại càng nhớ. Đứa con li hương tự hỏi thầm lòng mình: “Ta sắp dược thấy chúng chưa, hai cây phong sinh dôi ấy? Mong sao chóng về tại làng, chóng lên đồi mà đến vsi hai cây phong!” và hạnh phúc biết bao đối với đứa con xa quê lâu ngày mơi trở về, được “đứng dưới gốc để nghe mãi tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất ”.
Nhớ cây phong đối với khách tha hương là nhớ “tiếng nói riêng”, “tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu” của nó. Nhớ cây phong là nhớ dáng hình của nó, nhớ thân cây “nghiêng ngả” nhớ âm thanh “rì rào” của lá cành “lay động” cả ban ngày hay ban đêm. Ai-ma-tốp đã sáng tạo nên hàng loại ẩn dụ, so sáng và nhân hóa để gợi tả và biểu cảm về “tiếng nói riêng” “tâm hồn riêng” của hai cây phong quê nhà “như một làn sóng thủy triều dâng lên, vồ vào bãi cát”, “như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm chuyền qua lá cành , như một đốm lửa vô hình”.,.
Có lúc hai cây phong tưởng như đang trầm tư “bỗng im bặt một thoáng” rồi “lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”….Nếu cây tre, lũy tre làng ta, trong “Bão bùng thân bọc lấy thân – Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm” (Nguyễn Duy), thì cây phong làng Kur-ku-rêu, cây phong thảo nguyên trong mây đen và bão dông bị “xô gãy cành, tỉa trụi lá” , nó vẫn “dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Hai cây phong có một sức sống vô cùng mãnh liệt, biểu tượng cho bao phẩm chất tốt đẹp của con người quê hương, con người thảo nguyên.
Đây là đoạn văn hay nhất, giàu hình tượng và biểu cảm nhất nói về hay cây phong, thể hiện một sự tin tưởng kì diệu, phong phú với tất cả tình yêu nồng hậu đối với hoa cỏ, cây lá: một đoạn văn đáng học thuộc, đáng nhớ: … “Trong làng tôi không thiếu gì các loại cây, nhưng hai cây phong này khác hẳn…và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”.
Họa sĩ yêu hai cây phong quê nhà với tất cả tấm lòng và tình nghĩa thủy chung, như ông đã lâm sự: “Tuổi trẻ của tôi đã dể lại mùa ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh ”. “Mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh ” ấy là tâm hồn tuổi thơ vô cùng trong sáng.
Phần hai trích đoạn “Hai cây phong”, tác giả kết hợp-tự sự với miêu tả, nhắc lại kỉ niệm tuổi thơ êm đềm. Hoài niệm tuổi thơ về quê hương bao giờ cũng đằm thắm, thiết tha. Với con người Việt Nam chúng la, mỗi lần đi xa nhớ quê là nhớ hương vị đậm đà “nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương”, là nhớ con đò, cánh diều biếc, nhớ cây đa, giếng nước, sân đình, là nhớ dòng sông quê mẹ với bao kỉ niệm một thời thơ bé:
“Bạn hè tôi tụm núm tụm bảy
Bầy chim non bơi Ịội trên sông
Tôi đưa tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tói vào dạ.. ”
(“Nhớ con sông quê hương ” – Tế Hanh)
Nhân vật họa sĩ nhớ quê hương, nhớ làng Kur-ku-rêu là nhớ kỉ niệm tuổi thơ với cây phong thân thương. Không bao giờ có thể quên được “buổi học cuối cùng” năm ấy, trước khi bắt đầu nghỉ hè. Bọn con trai nghịch ngợm và hồn nhiên “reo hò, huýt còi ầm ĩ” chạy lên đồi…. Hai cây phong như những người bạn thân tình mở lòng đón tiếp: “chúng nghiêng ngã, đung đưa như muốn chào mời… đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền”. “Lũ nhóc con đi chân đất” trèo lên hai cây phong “làm chấn động cả vương quốc loài chim”.
Trên ngọn cây phong, “những cành cao ngất” bọn trẻ nhỏ làng Kur-ku-rcu vô cùng sung sướng ngắm nhìn cảnh vật gần xa. Chúng tưởng như “có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt… Cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”.
Cây phong đã mơ rộng tầm mắt, làm sáng lên tâm hồn tuổi thơ, làm cho lũ trẻ “sửng sốt”. Tất cả đều “nín thở ngồi im lặng”… phóng tầm mắt về bốn phía chân trời. Bức tranh quê hương hiển hiện, như mở rộng, như vẫy gọi. Chuồng ngựa của nông trang, dải thảo nguyên hoang vu, “xa thẳm biên biếc”. Những dòng sông xa lạ “lấp lánh tận chân trời như những sợi chí hạc mỏng manh”. Lũ trẻ “lắng nghe tiếng gió ào huyền ”, tiếng “thì thầm to nhỏ” của “lá cây đáp lại lời gió”, rồi chúng nghĩ về những miền đất lạ nơi chân trời xa xôi, về bầu trời, những đám mây, những đồng cỏ, sông ngòi, “những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thắm biên biếc kia”.
Cậu bé – họa sĩ tương lai vô cùng xúc động “lắng nghe tiếng hai cây phong rì rào, tim đập rộn ràng vì thảng thốt và vui sướng… ; lòng mơ tương và “cố hình dung ra những miền xa lạ kia”. Hai cây phong trên đồi quê không chỉ mở rộng tầm mắt mà còn nâng cánh ước mơ cho những em bé làng Kur-ku-rêu bay tới những chân trời xa xôi tươi sáng… Sau này, khi đã trưởng thành, nhân vật họa sĩ mới tự hỏi lòng mình: điều mà thuở ấu thơ chưa hề nghĩ đến “Ai là người đã trồng hai cây phong trên đồi này? Người vô danh ấy đã ước mơ gì, đã nói những gì khi vùi hai gốc cây xuống đất, người ấy đã ấp ủ những niềm hi vọng gì khi vun xới chúng mù đây, trên đỉnh đồi cao này?”
Tuổi thơ non nớt cũng không hiểu vì sao quả đồi có hai cây phong ấy, bà con làng mình gọi là “Trường Đuy-sen “. Tình cảm “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn” đã được Ai-ma-tốp diễn tả một cách tinh tế, sâu lắng, đầy chất thơ. Phần sau truyện “Người thầy đầu tiên” đã nói rõ tình cảm, tư tưởng tốt đẹp đó.
- Kết bài:
Trích đoạn Hai cây phong là trang văn chứa chan thi vị, đã thể hiện một cách sâu sắc tình yêu quê hương, tình yêu cây cỏ, cảnh sắc thiên nhiên quê nhà. Những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ và lòng biết ơn người thầy đầu tiên của đời mình, của quê hương mình đã làm nên chất thơ của truyện. Đoạn văn tả tiếng nói riêng, tâm hồn riêng của cây phong là hay nhất. Đoạn văn kể lại kỉ niệm tuổi thơ treo lên hai cây phong nhìn về bốn phía chân trời là cảm động nhất. Dòng hồi tưởng, nỗi nhớ hai cây phong của nhân vật họa sĩ như được chắt lọc từ nơi sâu thẳm tâm hồn, rất chân thực, hồn nhiên và trong sáng, vẻ đẹp cây phong là vẻ đẹp thảo nguyên phương Bắc. “Hai cây phong” là bài ca nghĩa tình về quê hương, về người thầy vĩ đại đã “trồng cây và trồng người”…
Cảm nhận ý nghĩa truyện Chiếc lá cuối cùng của nhà văn O.Henri
Cảm nhận vẻ đẹp hình ảnh hai cây phong trong đoạn trích Hai cây phong
Tham khảo:
Cảm nhận đoạn trích Hai cây phong
Truyện ngắn Người thầy đầu tiên của nhà văn Ai-ma-tốp đã đưa chúng ta về với làng nhỏ Ku-ku-rêu của nước cộng hoà Cư-rơ-gư-xtan thuộc Liên-Xô (cũ). Câu chuyện về người chiến sĩ Hồng quân, đoàn viên thanh niên cộng sản Đuy-sen – người thầy đầu tiên đã trồng hai cây phong nhỏ cùng cô bé An-tư-nai thuở trước. Để bốn chục năm sau, cô bé đã là một viện sĩ danh tiếng, còn Hai cây phong đã trở thành một phần không thể thiếu trong ký ức làng quê của biết bao thế hệ dân làng Ku-ku-rêu.
Kỷ niệm gắn bó với hai cây phong được kể lại theo hai mạch dẫn lồng vào nhau: mạch dẫn chuyện trực tiếp của nhân vật “tôi” – một hoạ sĩ đã lớn lên từ chính mảnh đất này và mạch kỷ niệm của cả một thế hệ “chúng tôi”. Ký ức thật đậm nét của tuổi thơ đã khiến cho người hoạ sĩ – nhân vật “tôi” đã tái hiện lại thật đẹp và xúc động hình ảnh hai cây phong – biểu tượng của quê hương, một mảnh hồn làng sống động.
Bắt đầu của những ký ức về làng quê là lời dẫn chuyện đưa người đọc trở về một nơi nằm ven chân núi, trên một cao nguyên rộng, có những khe nước ào ào từ nhiều ngách đá đổ xuống . Ku-ku-rêu đã hiện ra với tất cả vẻ hoang sơ của thiên nhiên với thung lũng, thảo nguyên, rặng núi. Hai cây phong không phải là món quà của tự nhiên nhưng đã từ rất lâu, những đứa trẻ đã biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình.
Để cũng rất tự nhiên, hình ảnh hai cây phong đã trở thành của riêng làng Ku-ku-rêu: “chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi”, trở thành mốc định hướng cho mọi người tìm đến. Riêng đối với “tôi”, “mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy”. Anh đã dành tình cảm đặc biệt với hai cây phong như với những người bạn, nhìn bằng cặp mắt chan chứa tình cảm yêu thương, nên dù khó nhìn đến mấy, anh bao giờ cũng cảm biết được chúng, lúc nào cũng nhìn rõ . Hai cây phong đã trở thành một phần tâm hồn của anh, chi phối cả niềm vui, nỗi buồn của người hoạ sĩ.
Bằng tình yêu ấy, anh đã tạo nên một bức tranh thật sinh động, đẹp đẽ. Một bức tranh ngân nga cả những giai điệu “tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Đoạn văn miêu tả hình ảnh hai cây phong đẹp như một bài thơ về một loài cây “có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”. Có lẽ chính tình yêu quê hương của người hoạ sĩ đã đem đến cảm giác choáng ngợp say sưa ấy: “Dù ta tới đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng cũng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau. Có khi tưởng chừng như một làn sóng thủy triều dâng lên vỗ vào bãi cát, có khi lại nghe như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm chuyển qua lá cành như một đốm lửa vô hình, có khi hai cây phong bỗng im bặt một thoáng, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”. Ngay cả khi thời tiết thay đổi khắc nghiệt, hai cây phong ấy vẫn như một con người bền bỉ kiên cường đối chọi với sức mạnh tàn phá của bão dông, “nghiêng ngả tấm thân dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”.
Cảm nhận của tuổi thơ đã được người họa sĩ ấy trân trọng gìn giữ, ngay cả khi khám phá ra điều bí ẩn về hai cây phong bằng những giải thích chính xác khoa học thì : “việc khám phá ra chân lí giản đơn ấy vẫn không làm tôi vỡ mộng xưa, không làm tôi bỏ mất cách cảm thụ của tuổi thơ mà tôi còn giữ đến tận ngày nay”. Bởi lẽ cây phong ấy đã gắn với cả một thời tươi đẹp: “Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh…”. Hình ảnh thời ấu thơ đã tạo thành không gian cổ tích rất riêng, phải chăng chính từ tình yêu và sự gắn bó với hai cây phong, đã làm cậu bé năm xưa lớn lên trở thành họa sĩ với mong muốn vẽ lại linh hồn nồng thắm của làng quê?
Hai cây phong ấy còn là kỷ niệm chung của chúng tôi – bọn con trai tinh nghịch ở làng Ku-ku-rêu, những người bạn cùng trang lứa của người họa sĩ. Đó là tất cả những ngày tháng được vui chơi, chạy nhảy giữa núi đồi rộng lớn , trong bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền của hai cây phong. Đẹp làm sao khoảnh khắc những cậu bé ấy được nâng lên cao từ những cành cao ngất, cao đến ngang tầm chim bay , một thế giới khác đã được mở ra, vượt ra khỏi giới hạn của làng quê Ku-ku-rêu nhỏ bé, “như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”.
Hai cây phong trở thành bệ đỡ, nâng cánh ước mơ cho những đứa trẻ, mở tầm nhận thức về một thế giới đầy những điều mới lạ cần khám phá, hướng về “những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia”. Cũng như bạn bè của mình, “tôi” – chú bé sau này là họa sĩ cũng trải qua cảm giác “tim đập rộn ràng vì thảng thốt và vui sướng, rồi trong tiếng xào xạc không ngớt ấy, tôi cố hình dung ra những miền xa lạ kia”. Hai cây phong đã trở thành người bạn lớn, người bạn tâm tình thân thiết đem lại những niềm vui vỡ oà hạnh phúc cho tuổi thơ.
Khi hưởng thụ niềm vui trong bao tháng ngày hồn nhiên thơ mộng bên hai cây phong ấy, không cậu bé nào đặt câu hỏi về người đã vun mầm, ấp ủ những niềm hi vọng, đem lại hạnh phúc tuổi thơ. Đó cũng là điều bình thường với bất cứ em bé nào. Hai cây phong của người chiến sĩ Hồng quân, đoàn viên thanh niên cộng sản Đuy-sen đã cùng trồng với em bé khốn khổ An-tư-nai trong những ngày làng Ku-ku-rêu còn chìm đắm trong lạc hậu tối tăm và những hủ tục còn đè nặng trong đời sống dân làng những năm đầu sau cách mạng tháng Mười đã trở thành chứng nhân cho sự lớn khôn của bao thế hệ.
Bản thân người thầy đầu tiên ấy vẫn ở lại với làng, đã trở thành một ông lão đưa thư mẫn cán Đuy-sen, thế nhưng khi các em bé gọi quả đồi có hai cây phong là “Trường Đuy-sen” như bao dân làng, có mấy ai còn nhớ ông lão ấy chính là thầy Đuy-sen, người đem đến ánh sáng cách mạng góp phần xoá tan đi bóng tối cho bao cuộc đời? Hai cây phong còn là minh chứng cho sự hy sinh lặng thầm của những người cộng sản trẻ tuổi đã không ngại ngần cống hiến thời thanh xuân tươi đẹp cho quê hương thay da đổi thịt. Tình cảm yêu mến hai cây phong của “tôi”, của “chúng tôi”, của những người dân làng Ku-ku-rêu khiến chúng ta trân trọng chính là vì hai cây phong ấy gắn với câu chuyện về một con người cao đẹp, người thầy giáo không có bằng sư phạm nhưng đã vun trồng bao ước mơ, hi vọng cho những trò nhỏ của mình.