»» Nội dung bài viết:
Đọc – hiểu văn bản:
Số phận con người
(M. Sô-lô-khốp)
I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả: A. Sô-lô-khốp.
– A.Sô-lô-khốp (1905 – 1984). Ông sinh trưởng trong một gia đình nông dân ở thị trấn Vi-ô-sen-xcai-a, một địa phương thuộc tỉnh Rô – xtốp trên vùng thảo nguyên sông Đông.
– Ông tham gia nhiều công tác cách mạng từ khá sớm: làm thư kí uỷ ban trấn, nhân viên thu mua lương thực, tiễu phỉ…
– Cuối 1922, ông đến Mát-xcơ-va, chấp nhận làm mọi nghề để sinh sống và thực hiện “giấc mơ viết văn”.
– Năm 1925, ông trở lại quê hương và bắt đầu viết “Sông Đông êm đềm” – một bộ tiểu thuyết sử thi đồ sộ dựng lại bức tranh sinh động về cuộc sống của những người nông dân Cô-dắc cùng những biến động xã hội và đấu tranh giai cấp ở vùng này sau Cách mạng Tháng Mười Nga 1917.
– Năm 1926, ông đã in hai tập truyện ngắn “Truyện sông Đông” và “Thảo nguyên xanh”.
– Trong thời kì chiến tranh vệ quốc, với tư cách là phóng viên mặt trận, Sô-lô-khốp xông pha nhiều chiến trường, viết nhiều bài chính luận, kí, truyện ngắn nổi tiếng.
– Sau chiến tranh, ông tập trung chủ yếu vào sáng tác.
– Năm 1965, ông được tặng Giải thưởng Nô-ben về văn học.
– Những tác phẩm chính:
+ Tập truyện: “Truyện sông Đông”.
+ Các tiểu thuyết: “Sông Đông êm đềm”, “Đất vỡ hoang”, “Họ đã chiến đấu vì Tổ quốc”…
→ A.Sô-lô-khốp là nhà tiểu thuyết tài năng và là một trong những nhà văn lớn nhất thế kỉ XX của nước Nga.
2. Tác phẩm: Số phận con người
– Hoàn cảnh sáng tác: Truyện Số phận con người được công bố lần đầu trên báo Sự thật, số ra ngày 31/12/1956 và 01/01/1957. Truyện có ý nghĩa khá quan trọng đối với sự phát triển của văn học Xô Viết. Đây là tác phẩm đầu tiên, nhà văn tập trung thể hiện hình tượng con người bất hạnh sau chiến tranh, nhìn cuộc sống và chiến tranh toàn diện, chân thực. Về sau, truyện được in trong tập “Truyện sông Đông”.
– Thể loại: tiểu thuyết dài.
– Nội dung: Sức mạnh tinh thần, tình yêu thương có thể cứu vớt con người và nhờ nó, con người có thể vượt qua sự tàn phá, hủy diệt của chiến tranh, xây dựng cuộc sống tự do, yên lành. Tính cách nhân hậu và bản lĩnh kiên cường của con người Xo Viết. Tác phẩm là truyện ngắn xuất sắc đánh dấu bước chuyển trong nhìn nhận chiến tranh và khám phá tính cách Nga; được đánh giá là một tiểu anh hùng ca.
– Bố cục: 3 phần.
+ Phần 1 (từ đầu đến “chú bé đang nghịch cát đấy”): Trước khi Sô-cô-lốp và bé Va-ni-a gặp nhau.
+ Phần 2 (tiếp đó đến “chợt lóe lên như thế”): Cuộc gặp gỡ giữa Sô-cô-lốp và bé Va-ni-a.
+ Phần 3 (còn lại): Số phận hẩm hiu của Sô-cô-lốp và niềm tin vào sức mạnh của con người Nga.
* Tóm tắt:
Mùa xuân 1946, Sô-cô-lốp gặp cha con Sô-cô-lốp đang trên hành trình đến Ka-sa-rư. Trên chuyến đò, Sô-cô-lốp kể cho “tôi” cuộc đời bất hạnh của anh. Sô-cô-lốp bước vào chiến tranh để lại vợ và ba con nhỏ. Anh bị thương, bị bắt làm tù binh và bỏ trốn khỏi nhà tù Đức nhờ một lần được chúng huy động lái xe. Khi trở về, anh hay tin vợ và hai con gái đã chết. Niềm hi vọng cuối cùng là cậu con trai A-na-tô-li, một đại úy pháo binh, cũng bị phát xít Đức bắn chết. Sô-cô-lốp rơi vào cảnh không nhà cửa, không gia đình. Anh đến nhà một người bạn cũ ở U-riu-pin-xcơ và làm lái xe ở đây. Để chống chọi với nỗi mất mát, Sô-cô-lốp chìm trong men rượu mỗi tối. Cuộc đời anh thay đổi khi gặp và nhận nuôi cậu bé Va-ni-a mồ côi tội nghiệp. Việc này đã khiến cả hai cha con hạnh phúc và sung sướng vô cùng. Để nuôi con, anh bỏ rượu, khắc phục nhiều khó khăn trong công việc và nỗi đau đớn trong trái tim mình. Nhưng Sô-cô-lốp gặp xui xẻo khi đâm phải con bò, anh bị tước bằng lái. Sô-cô-lốp quyết định cùng con trai đến Ka-sa-rư nhờ một người bạn để tìm công việc mới và tiếp tục chăm lo cho con.
II. Đọc hiểu văn bản.
1. Hoàn cảnh của Xô-cô-lốp và bé Va-ni-a trước khi gặp nhau.
a. Nhân vật Xô-cô-lốp.
– Hoàn cảnh và tâm trạng của Xô-cô-lốp sau chiến tranh và trước khi gặp bé Va-ni-a thật đáng thương. Bản thân anh chịu nhiều cay đắng,bất hạnh, mất mát tận cùng:
+ Bị thương hai lần, hai năm bị đọa đày trong trại tù binh Đức. Sau khi thoát khỏi cảnh nô lệ tù binh, Xô-cô-lốp được biết một tin đau đớn: Vợ và hai con gái anh đã bị bom phát xít giết hại. Đứa con trai yêu quí của anh bị “một tên thiện xạ Đức” giết chết ngay ngày chiến thắng. Ngôi nhà chỉ còn là một hố bom, niềm hi vọng duy nhất là A-na-tô-li cũng vỡ vụn. Vì độc lập và sự sống còn của nhân dân, anh đã chịu đựng những mất mát ghê gớm..
– Sau chiến tranh: Anh không còn quê, không còn nhà, không còn người thân, phải sống nhờ nhà người đồng đội cũ, xin làm lái xe và hàng đêm chìm vào men rượu để chống đỡ nỗi đau. Sống trong nỗi đau khổ, thất vọng và cô đơn: “Phải nói rằng tôi đã thật sự say mê cái món nguy hại ấy!”
→ Bị đẩy vào tình cảnh bế tắc, anh suýt rơi vào nguy cơ nghiện rượu. Tâm trạng đau đớn, cô độc, luôn cảm thấy trong người có cái gì đó “vỡ tung ra”.
b. Nhân vật bé Va-ni-a.
– Gia cảnh bất hạnh, lang thang, cô độc: Bố chết ở mặt trận. Mẹ chết trên tàu hỏa. Không quê hương, không họ hàng thân thích.
– Ngoại hình lem luốc, bụi bặm:“Rách bươm sơ mướp”, “Đầu tóc rối bù”, “bẩn như ma lem”; “Cặp mắt như những ngôi sao sáng”.
2. Cuộc gặp gỡ giữa Xô-cô-lốp và bé Va-ni-a.
a. Nhân vật Xô-cô-lốp.
+ Qua một cuộc gặp gỡ và những câu hỏi ngẫu nhiên, anh biết được bé Va-ni-a mồ côi, cha mẹ đều đã chết dưới bom đạn chiến tranh, không còn bà con thân thích. Cảm thương cho tình cảnh của chú bé, anh lập tức quyết định nhận bé làm con nuôi. Đây là quyết định có tính chất bộc phát, hồn nhiên, không có một chút suy tính hay tư lợi nào, một quyết định xuất phát từ tình yêu thương thật sự.
+ Sô-cô-lốp xúc động cực độ, không nghĩ rằng cậu bé vui sướng đến vậy. Anh lấy lại thăng bằng trong cuộc sống, tìm được ý nghĩa và mục đích sống.
→ Tấm lòng nhân hậu của An-đrây Xô-cô-lốp khi thấy tình cảnh tội nghiệp của Va-ni-a đã ngay lập tức quyết định nhận nuôi cậu bé. Cả hai đã nương tựa vào nhau. Và chính tình yêu chân thành khiến cả hai đều được xoa dịu những nỗi đau, mất mát do chiến tranh gây ra.
+ Khi đưa đứa con trai mới nhận về nhà, cả hai vợ chồng người bạn anh đề rất vui: “Bà chủ múc súp bắp cải vào đĩa cho nó, rồi đứng nhìn nó ăn ngấu nghiến mà nước mắt ròng ròng”. Đó là tiếng khóc thương cho hoàn cảnh tội nghiệp của chú bé; là cả tiếng khóc thương cho cả Xô-cô-lốp; là tiếng khóc cảm phục trước lòng tốt của Xô-cô-lốp; là tiếng khóc tự thương cho hoàn cảnh của bà.
+ Xô-cô-lốp yêu thương bé Va-ni-a rất mực: anh luôn tận tâm chăm sóc đứa con một cách vụng về nhưng rất đáng yêu. Tình thương bộc trực của người cha đau khổ và hạnh phúc. Có bé Va-ni-a, anh thấy mình như được hồi sinh: anh thấy mọi thứ như bắt đầu “trở nên êm dịu hơn”.
→ Chính lòng nhân ái đã giúp anh vượt qua cô đơn. Cả hai người đều hạnh phúc và có sự thay đổi lớn.
b. Nhân vật Bé Va-ni-a.
+ Sung sướng và xúc động: “nhảy chồm lên ôm cổ, hôn vào má, vào môi, …”. Cậu vui vẻ, quấn quýt bố không rời. “Nó áp sát vào người tôi, toàn thân cứ run lên như ngọn cỏ trước gió”. Cậu vô cùng vui vẻ, hồn nhiên, gắn bó, quyến luyến chẳng rời người bố: áp sát vào người, ôm chặt lấy cổ, áp chặt má, bố đi vắng thì “khóc suốt từ sáng đến tối”.
→ Tình cảm giữa họ là tình cảm chân thành thắm thiết của hai con người đều phải chịu nhiều mất mát lớn lao trong chiến tranh. Họ gặp nhau một cách ngẫu nhiên nhưng khi gặp nhau rồi thì gắn bó khăng khít với nhau, bù đắp cho nhau.
– Điểm nhìn của tác giả và nhân vật Xô-lô-cốp hoàn toàn trùng khớp nhau: “Cái chính ở đây là phải biết kịp thời quay mặt đi. Cái chính ở đây là đừng làm tổn thương em bé, đừng để cho em thấy những giọt nước mắt đàn ông hiếm hoi nóng bỏng lăn trên má anh”. Cần phải tổ chức cuộc sống như thế nào để trẻ em được sung sướng, hạnh phúc; phải chăm sóc cho bao đứa trẻ bất hạnh vì chiến tranh.
3. Xô-cô-lốp đã vượt lên nỗi đau và sự cô đơn.
– Sô-lô-khốp là nhà văn hiện thực nghiêm khắc, ông không tô hồng cuộc sống khó khăn mà Xô-cô-lốp phải vượt qua: Xe anh quét nhẹ phải con bò nhưng anh bị tước bằng, bị mất việc, phải đi phiêu bạt để kiếm sống.
– Thể chất anh cũng dần yếu đi: “trái tim tôi đã suy kiệt, đã chai sạn vì đau khổ…”, “có khi tự nhiên nó nhói lên, thắt lại và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi…”.
– Nỗi đau ám ảnh anh không dứt: “hầu như đêm nào … cũng chiêm bao thấy nhưng người thân quá cố”, đêm nào thức giấc gối “cũng ướt đẫm nước mắt”.
– Anh đã và đang gánh chịu những nỗi đau không gì bù đắp nỗi, thời gian cũng không xoa dịu được vết thương lòng. Anh đã cứng cỏi nuốt thầm giọt lệ để cho bé Va-ni-a không phải khóc. Chi tiết thể hiện sâu sắc cái nhìn nhân đạo của tác giả.
– Trong cuộc sống còn đầy những khó khăn thời hậu chiến An-đrây Xô-cô-lốp đã vượt lên nỗi đau và sự cô đơn của chính mình với một tinh thần trách nhiệm cao cả và một nghị lực phi thường. Anh quyết tâm khắc phục khó khăn của cuộc sống thường ngày để chăm lo cho Va-ni-a, tập làm quen với việc chăm sóc trẻ nhỏ.
+ Từ bỏ rượu, nỗ lực làm việc để nuôi con.
+ Mất việc vì đâm phải con bò, anh kiên cường đưa con cuốc bộ đến Ka-sa-rư tìm công việc mới.
+ Chống chọi với nỗi đau mất vợ con vẫn âm ỉ tìm về trong giấc mộng hàng đêm
→ Sức mạnh vượt qua khó khăn nhờ vào tấm lòng nhân hậu, lòng yêu thương trẻ, bản lĩnh kiên cường và lòng dũng cảm. Xô-cô-lốp tiêu biểu cho số phận và vẻ đẹp tâm hồn nước Nga.
– Niềm tin vào sức mạnh của con người Nga: Nỗi lo lắng, băn khoăn về tương lai của hai con người: “Hai con người côi cút….phía trước?” Thái độ tin tưởng vào sức mạnh con người Nga: “Thiết nghĩ,….có thể đương đầu với thử thách”.
→ Nhà văn ngợi ca và khẳng định sức mạnh tiềm ẩn và cống hiến thầm lặng của mỗi cá nhân cho Tổ quốc. Đồng thời cũng kêu gọi trách nhiệm, sự quan tâm trở lại của Tổ quốc đối với họ.
4. Thái độ của người kể chuyện.
– Truyện được xây dựng theo lối truyện lồng trong truyện, có hai người kể là Xô-cô-lốp và tác giả. Người kể chuyện phải tuân theo cách nói năng, tâm tính, giọng điệu của nhân vật Xô – lô – cốp và trực tiếp bộc lộ tâm trạng.
– Người kể chuyện còn trực tiếp miêu tả bối cảnh và thời gian gặp gỡ nhân vật chính, khung cảnh thiên nhiên, chân dung các nhân vật, những ấn tượng và đánh giá về các nhân vật đó. Tác giả không che giấu tình cảm, sự xúc động trước số phận con người.
– Người kể chuyện: xúc động, yêu quý và cảm phục tình cảm của hai cha con, tấm lòng nhân hậu của Xô-cô-lốp.
– Thái độ của người kể còn bộc lộ ở đoạn trữ tình ngoại đề cuối truyện: Trữ tình ngoại đề: là sự giãi bày cảm xúc, ấ tượng của nhà văn về những gì đã mô tả, phơi bày trước bạn đọc. “Hai con người … kêu gọi”. Tác giả không che giấu tình cảm, sự xúc động trước số phận con người.
5. Ý nghĩa lời trữ tình ngoại đề.
+ Là sự giãi bày cảm xúc, ấn tượng của nhà văn về những gì đã mô tả, phơi bày trước bạn đọc.. Thể hiện lòng khâm phục, sự quý mến với bản lĩnh kiên cường, lòng nhân hậu của con người Xô viết.
+ Tin tưởng vào một thế hệ tương lai qua hình ảnh chú bé Va-ni-a.
+ Tin vào sức mạnh tiềm ẩn và những cống hiến thầm lặng mà to lớn của thế hệ những An-đrây Xô-cô-lốp nói riêng và Con người Nga nói chung trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Tác giả bày tỏ lòng khâm phục và tin tưởng ở tính cách Nga kiên cường. Đồng thời cũng xa lạ với lối kết thúc có hậu, tô hồng hiện thực mà báo trước những khó khăn trở ngại mà con người phải vượt qua trên con đường vươn tới tương lai, hạnh phúc.
+ Quan điểm của tác giả: “Nghệ sĩ không thể lạnh lùng khi sáng tạo … khi viết, máu nóng nhà văn phải sôi lên…”
– Trước số phận bi thảm, trớ trêu của con người, tác giả bộc lộ sự đồng cả và lòng nhân hậu của mình.
→ Đoạn cuối là lời nhắc nhở, kêu gọi sự quan tâm, trách nhiệm của toàn xã hội đối với mỗi số phận cá nhân bất hạnh. Tác giả bày tỏ lòng khâm phục và tin tưởng ở tính cách Nga kiên cường; đồng thời cũng xa lạ với lối kết thúc có hậu, tô hồng hiện thực mà báo trước những khó khăn trở ngại mà con người phải vượt qua trên con đường vươn tới tương lai, hạnh phúc. Quan điểm của tác giả: “Nghệ sĩ không thể lạnh lùng khi sáng tạo … khi viết, máu nóng nhà văn phải sôi lên…” Trước số phận bi thảm, trớ trêu của con người, tác giả bộc lộ sự đồng cả và lòng nhân hậu của mình.
6. Suy nghĩ về thân phận con người.
– Tác giả thể hiện nghị lực kiên cường của Xô-cô-lốp trong cuộc đời thường đầy khó khăn sau chiến tranh.
– Hoàn cảnh đau khổ ghê gớm về tinh thần càng làm nổi bật tấm lòng nhân đạo của anh. Trái tim anh rực sáng trong thế giới còn đầy hận thù và đau khổ.
→ Truyện khám phá và ca ngợi tính cách Nga “con người có ý chí kiên cường” và lòng nhân ái.
– Tác giả còn miêu tả con người bình thường với phẩm chất yêu nước tiềm tàng, thầm lặng.
– Khi chia tay với hai cha con Xô-cô-lốp, tác giả nghĩ ngay tới “hai con người côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng cuả bão tố chiến tranh thổi bạt tới những mền xa lạ”.
→ Sô-lô-khốp nhắc nhở và kêu gọi sự quan tâm của xã hội đối với nhân cách con người và góp tiếng nói lên án chiến tranh phi nghĩa. Tác giả dũng cảm nói lên sự thật, không sợ màu sẫm và gai góc. Với Sô-lô-khốp, trong cuộc sống, mỗi người có thể sẽ có những số phận khác nhau, họ có thể gặp nhiều nỗi đau, bất hạnh, mất mát nhưng vẫn không đánh mất hi vọng vào niềm tin, niềm hạnh phúc con người. Ông tin tưởng, con người biết dựa vào nhau, chia sẻ, đùm bọc, yêu thương nhau sẽ tạo nên hạnh phúc.
III. Tổng kết.
1. Nội dung.
– Số phận con người tập trung khám phá nỗi bất hạnh của con người sau chiến tranh. Nhưng tác giả vẫn giữ niềm tin ở tính cách Nga kiên cường cũng như lòng tin ở cuộc sống bao dung.
– Tác phẩm chứa đựng một nội dung sâu sắc về triết học và thẩm mĩ, mang giá trị nhân văn sâu sắc: sức mạnh tinh thần, tình yêu thương có thể cứu vớt con người và nhờ nó, con người có thể vượt qua sự tàn phá, hủy diệt của chiến tranh, xây dựng cuộc sống tự do, yên lành.
2. Nghệ thuật:
– Chất trữ tình tha thiết.
– Bút pháp hiện thực nghiêm ngặt.
– Lối kết cấu truyện lồng trong truyện sinh động.
– Nhân vật được miêu tả giàu cá tính và sinh động.
– Cách kể chuyện giản dị nhưng chứa đựng sức khái quát rộng lớn và sâu sắc.
IV. Luyện tập.
Câu 1:
– Sô-lô-khốp đã miêu tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó, trong “đau khổ, chết chóc, máu me” (Lời L.Tôn-Xtôi), thể hiện một cách nhìn mới, cách mô tả mới hiện thực cuộc sống sau chiến tranh.
– Nhân vật trong tác phẩm là những con người bình thường, thậm chí nhỏ bé với tất cả các quan hệ phức tạp đa dạng tiêu biểu cho số phận con người trong chiến tranh. Hoàn cảnh đau khổ ghê gớm của Xô-cô-lốp đã làm nổi bật tâm hồn nhân hậu và tính cách kiên cường của anh. Đó là những con người bình thường mà vĩ đại, hình ảnh của nhân dân Nga.
– Truyện cũng có một đoạn trữ tình ngoại đề ở phần cuối bày tỏ sự đồng cảm, lòng tin tưởng và sự khâm phục của tác giả đối với một tính cách Nga kiên cường và nhân hậu. Nhà văn tin tưởng vào một thế hệ tương lai qua hình ảnh chú bé Va-ni-a. Đó cũng là lời nhắc nhở, kêu gọi sự quan tâm của toàn xã hội đối với mỗi số phận cá nhân sau chiến tranh. Cách kể chuyện này tạo ra một phương thức miêu tả lịch sử mới: Lịch sử trong mối quan hệ mật thiết với số phận cá nhân.
Câu 2:
Hai cha con dừng lại cuộc hành trình, sống ở một ngôi làng nhỏ. Người dân ở đó tuy nghèo khổ vì tất cả đều đang xây dựng lại mọi thứ từ những đổ vỡ của chiến tranh nhưng họ lại đầy ắp tình yêu thương và tinh thần lạc quan. Ngày ngày Xô-cô-lốp đi vỡ đất trồng cây, Va-ni-a tới trường với bạn bè… Cả hai sống hạnh phúc, vui vẻ. Những vết thương buốt nhót ngày xưa dần nguôi ngoai và tạm ngủ yên trong kí ức của họ.
LUYỆN TẬP.
Bài tập 1: Lòng nhân hậu của nhân vật Anđrây Xô-cô-lốp được thể hiện như thế nào trong đoạn trích “Số phận con người” của Sô-lô-khốp?
– Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nhân dân Nga ca khúc khải hoàn nhưng họ cũng phải gánh chịu hậu quả thật lớn lao của chiến tranh. Đau thương, mất mát không chỉ giáng xuống đầu người ngoài mặt trận mà thảm hoạ ấy còn gây ra cho biết bao người vô tội nơi hậu phương như vợ con Xô-cô-lốp, như gia đình bé Va-ni-a.
– Xô-cô-lốp từ mặt trận trở về, lang thang trong nỗi đau mất mát quá lớn, anh đã gặp bé Va-ni-a bơ vơ trong một quán giải khát bên đường. Anh đã nhận bé làm con. Hai trái tim côi cút nương tựa vào nhau. Cuộc sống của anh dù phải đi ở nhờ, công việc bấp bênh nhưng anh đã dồn hết tình cảm của mình cho bé, chăm sóc yêu thương bé như một người cha ruột.
– Trái tim đầy thương tích của anh, nó vẫn dày vò làm anh đau đớn hàng đêm. Anh chỉ sợ một ngày nào đó nó bỗng ngừng đập thì bé Va-ni-a sẽ sống ra sao? Anh giấu kín những giọt nước mắt để cho bé được sống vui vẻ, hồn nhiên với tuổi thơ.
→ Sự chăm sóc chí tình của Xô-cô-lốp đối với Va-ni-a dù có vụng về của một người đàn ông nhưng qua đó, nhà văn đã làm nổi bật lên tính cách Nga – một tấm lòng nhân hậu của người lính sau chiến tranh. Xô-cô-lốp mang cả hai vẻ đẹp: anh hùng trong chiến đấu, nhân hậu với con người. Lòng nhân ái có thể giúp cho con người không chai sạn, hàn gắn được phần nào vết thương đau. Chính lòng nhân ái đã giúp hai con con Xô-cô-lốp thêm sức mạnh để vượt qua cuộc sống vốn rất phũ phàng.
Bài tập 2: Trong phần cuối tác phẩm “Số phận con người”, nhà văn M. Sô- lô-khốp viết: “Hai con người côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới miền xa lạ…” “Hai con người” được nói đến ở trên là những nhân vật nào? Vì sao tác giả gọi họ là “ Hai con người côi cút” ? Hình ảnh “hai hạt cát” trong câu văn có ý nghĩa gì?
– Hai con người được nói đến là A. Xô- cô- lốp và bé Va- ni- a ( hoặc Va- niu- ska)
– Tác giả gọi là hai con người côi cút vì A. Xô- cô lốp và bé Va-ni- a đều mất hết người thân trong chiến tranh.
– Hình ảnh hai hạt cát có ý nghĩa:
+ Những số phận bé nhỏ, mong manh là nạn nhân của bão tố chiến tranh.
+ Niềm cảm thương của tác giả dành cho nhân vật