phan-tich-bai-tho-cam-xuc-mua-thu-cua-do-phu-10779-2

Cảm nhận bài thơ Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) của nhà thơ Đỗ Phủ

Dàn bài: Cảm nhận bài thơ “Cảm xúc mùa thu” của nhà thơ Đỗ Phủ

  • Mở bài:

Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung Quốc. Ông được vinh danh là danh nhân văn hoá thế giới, mệnh danh là Thi Thánh, một trong ba đỉnh cao của Đường thi. Hiện kho tàng thi ca của Đỗ Phủ còn khoảng 1.500 bài. Sáng tác của Đỗ Phủ là bức tranh hiện thực sinh động, chân thực về xã hội Trung Quốc thời Vãn Đường. Mỗi bài thơ là sự đồng cảm sâu sắc với nỗi khỏ đau của nhân dân, chứa chan tình yêu nước và tinh thần nhân đạo được chuyển tải trong một giọng thơ trầm uất, nghẹn ngào, chan chứa tình đời và tình người. Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) là bài thơ tiêu biểu của Đỗ Phủ.

  • Thân bài:

Đỗ Phủ xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học và thơ ca lâu đời. Sống trong thời kì đất nước loạn lạc, đời sống nhân dân lầm than cơ cực, có chí lớn phò vua giúp nước nhưng không thành. Điều đó, ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp công danh và nội dung sáng tác thơ văn của Đỗ Phủ:

Thu hứng

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm

Dịch thơ:

Cảm xúc mùa thu

Lác đác rừng phong hạt móc sa, 
Ngàn non hiu hắt, khí thu loà. 
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, 
Mặt đất mây đùn cửa ải xa. 
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ, 
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà. 
Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước,
Thành Bạch, chầy vang bóng ác tà.

1. Cảnh thu ở Quỳ Châu (4 câu đầu):

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

(Lác đác rừng phong hạt móc sa, 
Ngàn non hiu hắt, khí thu loà).

– Hình ảnh “phong thụ lâm” → báo hiệu thu đã về
– Ngọc lộ: hạt sương móc trắng
– “Điêu thương”: cảnh rừng phong tiêu điều

⇒ Cảnh rừng phong xác xơ, lạnh lẽo

– Hình ảnh: Vu Sơn, Vu Giáp → núi non hùng vĩ, trùng điệp
+ “khí tiêu sâm”: khí thu hiu hắt, âm u, lạnh lẽo
⇒ Cảnh núi non hùng vĩ, không khí thu tiêu điều

Bức tranh thiên nhiên mùa thu được miêu tả với cảnh đẹp rực rỡ, tráng lệ. Cảnh tiêu điều, nhuốm màu li biệt,  mang tâm trạng của tác giả. Núi non hùng vĩ nhưng ảm đạm, nhạt nhòa trong hơi thu.

Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

(Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, 
Mặt đất mây đùn cửa ải xa)

– Nước mùa: thu nổi sóng lên tận trời
– Mây thu: sà tận đất
– Nước mùa:thu nổi sóng lên tận trời
→ Đối lập, động từ mạnh

⇒ Cảnh thu hùng vĩ ,có phần dữ dội, các sự vật như muốn hoán đổi, đảo lộn thiên nhiên. Nỗi niềm thương nhớ lo âu đối với mọi người và vừa xót xa cho chính bản thân mình.

Cảnh tượng hoành tráng, dữ dội, âm u, mờ mịt. Cảnh vật thể hiện rõ phong cách của Đỗ Phủ giai đoạn cuối đời: trầm uất, bi tráng. Bức tranh thiên nhiên được vẽ bằng tâm cảnh, núi non trùng điệp mà hiu hắt, cảnh sôi động mà nhạt nhoà → nỗi buồn thu. Trong cảnh ấy vẫn ngậm ngùi tình của người viết. Cảnh mùa thu có phần điêu linh, dữ dội như báo trước một điều chẳng lành.

⇒ Bằng những nét chấm phá, tả cảnh ngụ tình, tác giả đã vẽ nên bức tranh mùa thu ở Quỳ Châu hùng vĩ, bí hiểm, âm u nhưng chan chứa tình người.

2. Nỗi lòng của nhà thơ (4 câu sau)

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ, 
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà).

– Phép đối: đối từ, đối ý và đối thanh
– Ẩn dụ tượng trưng
+ Cúc: hoa của mùa thu
+ Con thuyền: tượng trưng cho cuộc đời nổi trôi, phiêu bạt→ chở tâm tình mong được trở về quê hương
– Lưỡng khai (hai lần nở)
– tha nhật lệ (giọt sương/ nước mắt tuôn)
→ Khóc cho đất nước điêu tàn, khóc cho nhân dân lầm than, cơ cực, khóc vì xa quê
– Cô chu: tả thực, tượng trưng -> con thuyền chở gia đình Đỗ Phủ đi lánh nạn/ Cuộc sống lênh đênh, chìm nổi, cô đơn.
– hệ (buộc) + cố viên tâm (nỗi lòng nhớ quê nhà)
– lưỡng (hai) → số nhiều
– nhất (một) → duy nhất

→ Nỗi lòng nhớ quê da diết của Đỗ Phủ → lòng yêu nước của ông.

– Tiếp tục phát triển những cảm xúc của thi nhân. Nỗi lòng được bộc lộ trực tiếp hơn. Tác giả đồng nhất nhiều sự vật và hiện tượng : Tình – cảnh; hiện tại- quá khứ; sự vật – con người .
+ “Khóm cúc …cũ” : có thể hiểu khóm cúc đã nở hoa 2 lần và cả 2 lần đều làm chảy dòng lệ cũ , hay nhìn cúc nở hoa mà tưởng chừng như cúc ứa lệ . Cảnh đã hòa vào tâm, không biết cúc ứa lệ hay thi nhân ứa lệ ? một khóm cúc nở hoa đã hai lần cũng là hai năm xa nhà, xa quê làm sao không thương nhớ không rơi lệ
+ “Tha nhật lệ” – nước mắt ngày cũ : Đỗ Phủ không chỉ khóc một lần mà đã nhiều lần ứa lệ, cuộc đời ông thường chan hòa nước mắt vì loạn li
+ “Cô chu”- con thuyền lẻ loi cô độc đang neo đậu nơi quê người đang cột chặt tấm lòng của người lữ khách tha phương
+ “Con thuyền”: Hình ảnh thực, con thuyền đã chở Đỗ Phủ; Hình ảnh ẩn dụ: cuộc đời Đỗ Phủ cũng như con thuyền lẻ loi cô độc phiêu dạt giữa dòng đời
+ “Buộc” : buộc con thuyền lại vì loạn lạc, buộc cả tấm lòng nhớ quê hương ở lại.

⇒ Thời gian lưu lạc được tính bằng màu cúc nở hoa, tình cảm đau thương được đo bằng số lần nhỏ lệ. Và có sự thay đổi tầm nhìn: xa đến gần.

Tác giả lại chọn hai hình ảnh “hoa cúc” và “con thuyền” để diễn tả nỗi nhớ quê nhà. Khai tha nhật lệ: nở ra …..nước mắt, Hệ cố viên tâm: buộc vào… trái tim. Hoa cúc nở hai lần, lần nào cũng ra nước mắt. Đỗ Phủ đã khóc từ lâu rồi: gia đình ông cũng đi trên một con thuyền chưa biết trôi dạt về đâu → càng nhớ quê hương

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

“Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước,
Thành Bạch, chầy vang bóng ác tà”.

– Thời gian: mộ (buổi chiều)
– Không gian: Bạch Đế thành cao
– Âm thanh: thôi đao xích, cấp mộ châm ( rộn ràng, tiếng dao thước may áo, tiếng chày dồn dập)→ cuộc sống sinh hoạt của cư dân
→ Bút pháp tả cảnh ngụ tình làm tăng thêm nỗi nhớ quê, nhớ nhà, người thân, da diết hơn.

⇒ tâm sự yêu nước ,thương đời và cũng chính là nỗi lòng riêng tư của nhà thơ.

Ở hai câu cuối tác giả tả cảnh nơi thành Bạch Đế rộn ràng,không khí nhộn nhịp, mọi người nô nức may áo chuẩn bị chống rét. Âm thanh đập vải đầy gợi cảm. Những âm thanh rộn rã không làm ấm lòng người lữ khách trái lại càng làm cho khách tha hương thêm não lòng. Với Đỗ Phủ mùa thu chỉ buồn bã hiu hắt nhưng mùa đông còn đáng sợ hơn: một kẻ không nhà cửa, áo ấm.

⇒ Tiếng chày đập vải: âm thanh thường nhậy báo hiệu mỗi độ thu về, điểm nhấn vào chỗ sâu thẳm của lòng người : nỗi đau khao khát về một mái ấm gia đình.

  • Kết bài:

Qua bài thơ ta thấy cảnh thu gắn với mùa thu: rừng thu điêu thương, khí thu hiu hắt, hoa thu nhỏ lệ .Cảnh đời cũng không tách rời mùa thu: nỗi đau xót, cô đơn, nỗi nhớ quê da diết trong hoàn cảnh loạn li. Tình thu đẫm lệ và tình đời dâng trào cảm xúc. Bài thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) thể hiện nỗi buồn riêng thấm thía và tâm sự chứa chan lòng yêu nước thương đời của tác giả.


Bài tham khảo:

Cảm nhận bài thơ “Cảm xúc mùa thu” (Thu hứng) của nhà thơ Đỗ Phủ

  • Mở bài:

Đỗ Phủ là một trong ba nhà thơ lớn nhất của thi ca đời Đường, được tôn vinh là “thi thánh”. Mang chí lớn, muốn đem tài nang giúp nước, giúp đời nhưng sinh ra gặp cảnh li loạn, Đỗ Phủ sống cuộc đời nghèo túng và gánh chịu nhiều đau khổ. Bởi thế, thơ ông phản ánh hiện thực và bày tỏ thái độ, tâm trạng trước hiện thực khốn khổ của nhân dân, của nạn chiến tranh, nạn đói. Ông đặc biệt thành công ở mảng thơ biểu hiện tâm trạng khác nhau khi sống trong cảnh tha phương cầu thực vì loạn li – trong đó nổi tiếng nhất là chùm thơ “Thu hứng” gồm tám bài thất ngôn bát cú Đường luật.

  • Thân bài:

Chứng kiến cảnh đất nước loạn li và là nạn nhân của xã hội thời loạn nên văn thơ của “Thi thánh” Đỗ Phủ chứa đựng chất liệu hiện thực rất phong phú. Thơ ông được coi là “thi sử” với nghệ thuật điêu luyện và khả năng truyền tải nội dung tư tưởng thời đại rất diệu kì.

Xuất thân trong gia đình Nho học, mấy đời làm quan, ông nội là nhà thơ Đỗ Thẩm Ngôn nổi tiếng thời Sơ Thịnh Đường, Đỗ Phủ mang trong mình lí tưởng của người quân tử, muốn tiến thân bằng con đường khoa cử, cứu nước giúp đời. Nhưng triều đình phong kiến thối nát, vua tôi ăn chơi sa đọa thời ấy đã làm lí tưởng của ông đổ vỡ. Ông bị đẩy xuống tận đáy xã hội và phải chết đói trên con thuyền lẻ loi nơi đất khách quê người. Qua thơ Đỗ Phủ, xã hội đời Đường ở hai giai đoạn trước và sau loạn An Lộc Sơn hiện lên rất đậm nét. Mang tâm trạng đau đời của một con người có trách nhiệm với dân tộc, với đất nước nên thơ ca Đỗ Phủ là những vần thơ thấm nỗi buồn và đẫm nước mắt.

Chùm thơ “Thu hứng” thể hiện rất rõ nỗi đau đời ấy của thi nhân. “Thu hứng” được sáng tác năm 766, bốn năm trước khi nhà thơ qua đời. Đây là giai đoạn nhà thơ đang cùng gia đình chạy loạn trong cảnh đói rét và bần hàn, cũng là thời kì chín muồi tài năng của ông. Bốn câu thơ đầu tả cảnh mùa thu với những hình ảnh rất quen thuộc, đó là rừng phong, là khí trời u ám, mặt nước mờ sương :

“Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm”.

(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu loà.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)

Bốn câu thơ tả cảnh thu vừa có chất nhạc vừa có chất hoạ. Đủ cả sắc màu, đường nét và âm thanh. Nhưng sắc màu không sáng, thanh âm không vui. Đường nét, hình ảnh của bức tranh thì rất hùng vĩ, mở ra một khung cảnh thiên nhiên với đủ núi rừng, sông nước, bầu trời và cửa ải. Một không gian rộng nhưng có giới hạn chứ không vô tận. Đó là một không gian u ám của một buổi sáng mùa thu không có ánh bình minh. Không khí u ám được gợi lên ở những từ ngữ “điêu thương”, “khí tiêu sâm”, “tiếp địa âm”. Nó gợi cảm giác u ám và lạnh lẽo.

Nhạc tính được thể hiện ở nghệ thuật bố trí thanh bằng trắc và cách gieo vần. Bốn câu thơ này có tới ba câu gieo vần bằng, đồng thời lại sử dụng rất nhiều thanh bằng (17/28 thanh bằng), tạo nên cảm giác mênh mang của tâm trạng trữ tình. Xét về nội dung, đây là bốn câu thơ tả thực cảnh mùa thu với những nét thu rất đặc trưng của thiên nhiên Trung Quốc. Tính chất cổ điển của Đường thi thể hiện ở bốn câu thơ này. Có thể hình dung một người hoạ sĩ đứng ngắm mùa thu và cất bút vẽ, bắt đầu nhìn từ cảnh gần, từ rừng phong rồi đến dòng sông, xa hơn nữa là dãy núi và cuối cùng tầm nhìn bị cản trở bởi cửa ải xa đầy sương mù.

Cảnh thực mùa thu Trung Quốc thường buồn lạnh như vậy, nhưng cái khí u ám của bức tranh sơn thuỷ hùng vĩ này còn được tạo nên bởi tâm tư người dựng cảnh. Chủ thể sáng tạo bức tranh chắc phải mang tâm trạng rất u sầu thì mới thể hiện thần thái u buồn ấy của bức tranh. Cảnh và tình có sự giao hoà tạo nên một bức tranh thiên nhiên đầy tâm sự.

Không gian nghệ thuật bài thơ có đủ chiều cao, chiều rộng nhưng không thoáng mà rất nặng nề. Bởi không gian và cảnh sắc mùa thu ấy được nhìn dưới con mắt của một con người đang phải sống tha hương trong cảnh khốn khó, phải chứng kiến dân tộc đang trong cảnh loạn li. Hướng về quê hương trong nỗi nhớ da diết nhưng không thể trở về được càng làm cho tâm trạng thêm u sầu. Ánh mắt hướng về nơi quê nhà ấy bị cản trở bởi cửa ải mây mù. Tâm trạng đau buồn của người tha hương thời loạn được bộc lộ trực tiếp hơn ở phần hai, phần tả tình của bài thơ :

“Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm”.

(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)

Bốn câu thơ nói đến cảnh ngộ và tâm trạng của chủ thể trữ tình. Hai phần của bài thơ có vẻ như độc lập về nội dung. Mạch cảm xúc có sự chuyển hướng đột ngột, nhưng thực ra đây là bước phát triển tất yếu của tâm trạng thơ. Cảnh buổi sáng mùa thu u ám gợi liên tưởng đến thực tại và những ngày kế tiếp của cảnh chạy loạn. Chẳng có gì sáng sủa hơn cho những ngày sắp tới. Nỗi nhớ quê hương trỗi dậy trong lòng người lữ thứ khi thu sắp tàn và đông sắp tới. Tư tưởng nghệ thuật của bài thơ được tập trung ở câu “Cô chu nhất hệ cố viên tâm”.

“Cô chu” là con thuyền đơn độc trên sông. Đây là hình ảnh thơ vừa có ý nghĩa tả thực, vừa là một biểu tượng nghệ thuật. Khi chạy loạn, cả gia đình Đỗ Phủ đã phải sống trên một con thuyền thả trôi trên sông Trường Giang. Loạn lạc nên họ không thể trở về quê hương được. Tấm lòng thương nhớ quê nhà đành buộc chặt nơi con thuyền nhỏ ấy. Hình ảnh con thuyền còn mang một ý nghĩa khái quát, nó đã trở thành một biểu tượng nghệ thuật của văn học, dùng để chỉ thân phận lênh đênh của con người.

Lí Bạch từng dùng hình ảnh “cô phàm” để thể hiện tâm sự cô đơn, đồng thời thể hiện cảnh ngộ cô đơn và đầy bất trắc của Mạnh Hạo Nhiên khi ông bước chân vào chốn quan trường. Còn ở đây, “cô chu” thể hiện cảnh ngộ và tâm trạng của nhà thơ bất hạnh Đỗ Phủ. Năm 765, Đỗ Phủ cùng gia đình rời Thành Đô đến Vân An rồi Quỳ Châu. Vậy là trên thực tế, nhà thơ đã rời Thành Đô hai năm. Hai năm là hai mùa hoa cúc nở, hai mùa thu xa quê hương.

Người ta xa quê đi tha phương bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Còn với chủ thể trữ tình ở bài thơ này thì lí do xa quê là chạy loạn. Đó là lí do khắc nghiệt và đau thương nhất. Loạn li gây nên bao nỗi thương tâm nên nhìn hoa cúc nở mà lòng đau tưởng hoa cúc cũng rơi lệ. Nguyễn Công Trứ dịch câu thơ này là : “Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ “.Câu thơ dịch không làm rõ được nghĩa của nguyên tắc. Theo phần dịch nghĩa, có thể hiểu, người xa quê đã hai năm, nhưng dòng nước mắt nhớ quê không phải chỉ rơi hai năm mà đã từng rơi trước đó nữa. Đó không chỉ là dòng nước mắt của người chạy loạn mà còn là dòng nước mắt của nỗi đau đời. Nỗi đau được khúc xạ qua một tâm hồn nhạy cảm. Bao nỗi đau chất chứa trong lòng.

Tâm trạng “cố viên tâm” còn tiếp tục được bày tỏ trong bảy bài thơ còn lại của chùm Thu hứng. Bài Thu hứng có tính chất như là “cương lĩnh sáng tác” của cả chùm thơ. Nỗi nhớ quê càng da diết hơn khi người xa quê muốn trở về mà không được. Hai câu luận của bài thơ cùng phát triển một ý thơ, là điểm sáng thẩm mĩ và cũng là tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Vì nỗi nhớ quê hương, nhớ cuộc sống thanh bình nơi quê nhà xưa kia mà tâm trạng u uất, vì thế mà cảnh mùa thu vốn đã buồn lại càng nhuốm màu li biệt. Một con thuyền lẻ loi cô độc trên dòng Trường Giang dậy sóng là nơi trú ngụ của kẻ tha phương. Hướng về phía quê hương nhưng phía trước là cửa ải mịt mù, là dòng sông cuộn sóng, là loạn lạc binh đao. Một con thuyền nhỏ nhoi không đủ sức để vượt qua những cản trở đó mà trở về quê hương. Nỗi nhớ nhân lên nhiều hơn khi nghe tiếng chày đập áo, âm thanh quen thuộc và ấm áp của cuộc sống thường nhật :

“Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm”.

Những ngày cuối đời sống ở Quỳ Châu, Đỗ Phủ phải sống trong một hoàn cảnh cực kì khó khăn. Đói rét hành hạ tấm thân, nỗi nhớ, nỗi đau, niềm u uất dày vò trong lòng. Lang thang nay đây mai đó trên con thuyền nhỏ rách nát lại càng thèm muốn một ngôi nhà ấm áp. Cuối thu người ta bắt đầu chuẩn bị áo ấm cho một mùa đông dài giá buốt. Tiếng chày đập áo, ngày thường thật giản dị, chẳng mấy ai để ý. Nhưng trong cảnh ngộ của nhân vật trữ tình lúc này nó có tác động rất lớn. Nó là biểu tượng cho một cuộc sống yên bình, điều mà nhà thơ đang khao khát.

Sự đối lập giữa cảnh thu hiu hắt lạnh lẽo với tiếng chày đập áo trên thành Bạch Đế gợi nên sự đối lập của hai cuộc sống. Một tha phương đói rét, một ấm áp bình yên càng làm tăng nỗi nhớ quê hương của người lữ khách. Tiếng chày đập áo có sức gợi cảm rất lớn, nhất là trong mạch tâm trạng này của nhân vật trữ tình. Tiếng chày đập áo trong bóng chiều tà thật buồn, nó càng làm rõ thêm cảnh ngộ bi thương của người xa quê, nó đã tạo nên dư âm vang vọng cho bài thơ.

Bài thơ không chỉ là tâm trạng của một Đỗ Phủ trong cảnh ngộ cụ thể. Bài thơ là tâm trạng của nhiều người, của nhiều thời đại khi họ phải sống trong cảnh biệt li, nhất là biệt li trong loạn lạc. Cảnh và tình đã có sự kết hợp rất chặt chẽ tạo nên vẻ đẹp nghệ thuật và chiều sâu tư tưởng của bài thơ. Qua tâm trạng của nhân vật trữ tình, bài thơ đã tố cáo mạnh mẽ những cuộc chiến tranh phi nghĩa, nguyên nhân cơ bản đẩy con người đến những cảnh ngộ thương tâm. “Thu hứng”vừa là nỗi u sầu của người nhớ quê, vừa là niềm khao khát một cuộc sống yên bình của mỗi người dân. Ai đã từng sống trong chiến tranh, từng chịu cảnh loạn li ắt hẳn sẽ có sự đồng cảm sâu sắc với tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ này.

Phần lớn thơ của Đỗ Phủ là thơ luật. “Thu hứng” cũng nằm trong số đó. Bài thơ Thu hứng 1 là bài thứ nhất – có tính chất cương lĩnh trong chùm thơ Thu hứng gồm tám bài thất ngôn bát cú Đường luật của Đỗ Phủ, khi nhà thơ ở Quỳ Châu, lòng hướng về “vườn cũ” (cố viên). Đọc thêm Thu hứng 4 để thấy vẫn mạch cảm xúc ấy, nhưng cụ thể, mãnh liệt hơn, hồi cố những cảnh thăng bình của thủ đô Trường An những ngày còn thịnh trị.

Về cấu tứ và hình ảnh quả thực không có gì quá xa lạ. Đó đều là những thi liệu vẫn được các nhà thơ đời Đường ưa thích sử dụng. Nhưng với tài năng tinh luyện ngôn ngữ, sử dụng thanh bằng, trắc và tấm lòng tha thiết với quê hương đất nước, nhà thơ đã sáng tạo nên một thi phẩm giàu xúc cảm, vừa gợi cảm vừa giàu giá trị nhân văn. Bài thơ là một bức tranh tâm cảnh được bắt đầu từ cảnh để biểu lộ tình. Nó mang vẻ đẹp cổ điển về ngôn ngữ thi liệu, cấu tứ và nồng nàn hơi thở thời đại.

  • Kết bài:

Trong nỗi nhớ quê hương da diết ấy, cảnh rộn ràng tiếng dao thước may áo rét, tiếng chày đập áo dồn dập càng cho thấy rõ hơn nỗi niềm của kẻ xa quê phải tha hương nơi đất khách quê người. Nhưng bên cạnh đó hình ảnh ấy còn cho thấy nỗi lo lắng vì đất nước vẫn chưa được yên bình. Với ngôn từ hàm súc, cô đọng, bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Đỗ Phủ đã tái hiện bức tranh thu xơ xác, tiêu điều, lạnh lẽo. Đằng sau bức tranh ấy còn gửi gắm tâm trạng bài thơ: nỗi lo cho đất nước, nỗi nhớ quê hương và nỗi xót xa cho thân phận của chính mình.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang