Đọc hiểu văn bản: Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục (trích Trưởng giả học làm sang của Molie)
I. Đọc hiểu chú thích:
1. Tác giả:
– Mô-li-e (1622 – 1673) tên khai sinh là Jean-Baptiste Poquelin, là nhà soạn kịch nổi tiếng người Pháp.
– Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác: Ông được biết đến với vai trò là nhà thơ, nhà viết kịch, người sáng tạo ra thể loại kịch cổ điển và ông là một bậc thầy của kịch nghệ châu Âu. Năm 1655, ông viết vở kịch thơ đầu tiên là “Gàn dở”. Đến năm 1672 – 1673 ông viết vở kịch cuối cùng là “Bệnh giả tưởng”.
2. Tác phẩm Ông Giuốc-Đanh mặc lễ phục:
– Hoàn cảnh sáng tác: Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục trích trong vở kịch 5 hồi Trưởng giả học làm sang và là lớp kịch kết thúc hồi II.
– Thể loại: Kịch.
– Bố cục gồm 2 phần:
+ Phần 1: Từ đầu đến “cho các nhà quý phái”: Cuộc đối thoại giữa ông Giuốc – đanh và bác phó may.
+ Phần 2: Còn lại: Ông Giuốc – đanh và những tay thợ phụ.
– Giá trị nội dung: Văn bản khắc họa tính cách lố lăng của một tên trưởng giả đã dốt nát còn đòi học làm sang, tạo nên tiếng cười cho đọc giả.
– Giá trị nghệ thuật: Sử dụng lời thoại sinh động, chân thực và phù hợp, nghệ thuật tăng cấp khiến cho lớp kịch càng ngày càng hấp dẫn, tính cách nhân vật được khắc họa thành công, rõ nét.
II. Đọc – hiểu văn bản:
1. Ông Giuốc-đanh học làm sang:
– Xuất thân trong một gia đình tư bản giàu có, làm ăn phát đạt ⇒ ông muốn trở thành quý tộc.
– Vì ngu dốt, ngờ nghệch, bị những kẻ bịp bợm vào xâu xé, trục lợi ⇒ Có ước muốn hảo huyền trong khi bản thân không có khả năng.
⇒ Ông được khắc họa kĩ hơn ở hai tình huống chính là ông nhận lễ phục và mặc lễ phục.
2. Ông Giuốc- đanh nhận lễ phục:
– Hành động: Đặt tên phó may làm những thứ liên quan đến trang phục quý tộc.
– Tỉnh táo nhận ra việc phó may ăn bớt vài, lợi dụng kiếm chác nhưng khi phó may bịa ra lí lẽ rằng người quý tộc đều mặc vậy ⇒ thuận ý liền tin ngay.
– Phát hiện ra phó may ăn bớt vải của mình nhưng khi phó may khen vải đẹp nên gạn lại một chiếc áo để mặc ⇒ không hề giận nữa
⇒ Tình huống kịch bất ngờ, thú vị ⇒ Chỉ vì quá ham muốn học làm sang nên mất khôn, ngờ nghệch ⇒ trở nên nực cười
3. Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục
– Những tên thợ phục mặc lễ phục cho ông, ông đi đi lại lại phô cái áo mới, đều bước theo điệu nhạc thật chẳng khác nào chú hề
– Những lời đối thoại của ông Giuốc- đanh với bọn thợ phụ, chúng gọi ông là “ông lớn”, “cụ lớn” rồi “đức ông” để moi tiền
– Ông vô cùng thích thú và không hề tiếc túi tiền của mình để cho chúng
⇒ Nhân vật ông Giuốc- đanh mê muội, ngu dốt, ngờ nghệch, chỉ vì thói đòi học làm sang nên đã bị lợi dụng.
III. Tổng kết:
* Nội dung:
– Văn bản khắc họa tính cách lố lăng của một tên trưởng giả đã dốt nát còn đòi học làm sang, tạo nên tiếng cười cho đọc giả. Vở hài kịch không chỉ mang tính chất giải trí mà còn qua đó phê phán những con người đã dốt còn học đòi làm sang, tạo nên những tiếng cười đáng suy ngẫm.
* Nghệ thuật:
– Sử dụng lời thoại sinh động, chân thực và phù hợp, nghệ thuật tăng cấp khiến cho lớp kịch càng ngày càng hấp dẫn, tính cách nhân vật được khắc họa thành công, rõ nét.
Trả lời câu hỏi SGK.
Trả lời câu 1 (trang 121, SGK): Căn cứ vào các chỉ dẫn (những chữ được in nghiêng trong văn bản), cho biết lớp kịch gồm mấy cảnh. Xem xét số lượng nhân vật tham gia ở mỗi cảnh và các loại động tác, âm thanh trên sân khấu để chứng minh rằng càng về sau kịch càng sôi động.
Trả lời:
– Hành động kịch diễn ra tại phòng khách nhà ông Giuốc-đanh, một người trên bốn mươi tuổi, thuộc tầng lớp dân thành thị phong lưu. Bác phó may và một tay thợ phụ mang bộ lễ phục đến nhà ông.
– Lời chỉ dẫn sân khấu dài: “Bốn tay thợ phụ bước vào…” chia lớp kịch này thành hai cảnh rõ rệt: cảnh trước gồm những lời thoại của ông Giuốc-đanh và bác phó may, cảnh sau gồm những lời thoại của ông Giuốc-đanh và tay thợ phụ. Cảnh trước trên sân khấu có 4 nhân vật là bác phó may, tay thợ phụ mang bộ lễ phục, ông Giuốc-đanh và một gia nhân của ông Giuốc-đanh. Cảnh sau đông hơn, sôi động hơn, có thêm bốn tay thợ phụ nữa.
– Cảnh trước có hai người là ông Giuốc-đanh và bác phó may nói với nhau. Cảnh sau, cùng chỉ có hai người là ông Giuốc-đanh và một thợ phụ (tay thợ phụ mang bộ lễ phục đến lúc trước) nói với nhau. Nhưng ta hình dung bốn tay thợ phụ kia cũng xúm xít chung quanh, và ông Giuốc-đanh tuy chỉ đối thoại với một người mà như nói với cả tốp thợ phụ 5 người. Cảnh này rõ ràng nhộn nhịp hơn cảnh trước.
– Cảnh trước chủ yếu chỉ là những lời đối thoại, tất nhiên các lời đối thoại ấy kèm theo cứ chỉ. Sang cảnh sau, khán giả không chỉ được nghe những lời đối thoại, mà còn được xem các thợ phụ cởi quần áo cũ, mặc lễ phục mới cho ông Giuốc-đanh. Kịch sôi động hẳn lên.
– Đã thế ở cảnh sau trên sân khấu còn có ca nhảy múa và âm nhạc rộn ràng nữa. Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục được xây dựng công phu, sân khấu và rạp hát sôi động náo nhiệt khi màn hạ kết thúc hồi II.
Trả lời câu 2 (trang 121, SGK): Ở cảnh đầu, tính cách học đòi làm sang của ông Giuốc-đanh thể hiện như thế nào và bị lợi dụng ra sao?
Trả lời:
Cuộc đối thoại giữa hai người xoay quanh một số sự việc như bộ lễ phục, đôi bít tất, bộ tóc giả và lông đính mũ, nhưng chủ yếu là xoay quanh bộ lễ phục.
Tất nhiên ai may áo cũng phải may hoa hướng lên trên. Bác phó may chẳng biết là dốt, là do sơ xuất hay do cố tình biến ông Giuốc-đanh thành trò cười nên đã may ngược hoa. Ông Giuôc-đanh chưa phải là mất hết tỉnh táo nên đã phát hiện ra điều đó nhưng chỉ cần bác phó may vụng chèo khéo chống, bịa ra lí lẽ những người quý phái đều mặc áo ngược hoa là ông ưng thuận ngay.
Đoạn này có kịch tính cao. Bác phó may đang ở thế bị động (bị chê trách may áo ngược hoa), nay chuyển sang thế chủ động tấn công lại bằng hai đề nghị liên tiếp: “Nếu ngài muốn thì sẽ xoay hoa xuôi lại thôi mà”, “Ngài chỉ việc bảo thôi”. Và thế là ông Giuôc-đanh cứ lùi mãi: “Không, không”, “Đã bảo không mà, Bác làm thế này được rồi”, sau đó đánh bài lảng sang chuyện khác hỏi bộ lễ phục ông mặc có vừa vặn không.
Ông Giuốc-đanh lại phát hiện ra bác phó may ăn bớt vải của mình. Thợ may ăn giẻ, thợ vẽ ăn hồ. Ông chuyển sang thế chủ động, trách bác phó may bằng hai lời thoại. Bác phó may chống đỡ yếu ớt. Bây giờ đến lượt bác gỡ thế bí bằng cách chơi nước cờ lảng sang chuyện khác hỏi ông Giuốc-đanh có muốn mặc thử bộ lễ phục không. Nước cờ khá cao tay vì nó đánh thẳng vào tâm lí ông Giuôc-đanh đang muốn học đòi làm sang.
Trả lời câu 3 (trang 121 SGK): Tính cách đó của ông thể hiện như thế nào và bị lợi dụng ra sao ở cảnh sau?
Trả lời:
Mô-li-e chuyển tiếp từ cảnh trước sang cảnh sau ở lớp kịch này một cách hết sức tự nhiên và khéo léo. Khi ông Giuốc-đanh mặc xong bộ lễ phục là được tay thợ phụ tôn xưng là “ông lớn” ngay, khiến ông tưởng rằng cứ mặc lễ phục vào là nghiễm nhiên trở thành quý phái.
– Khác với tính cách của bác phó may, tay thợ phụ ranh mãnh dùng mánh khóe nịnh hót để moi tiền, điểm huyệt đúng thói học đòi làm sang của ông Giuốc-đanh. Thấy ông mắc mưu, tay thợ phụ dấn thêm mấy bước, cứ tôn lên mãi “ông lớn” đến “cụ lớn” rồi đến “đức ông”.
– Ông Giuốc-đanh vẫn nghĩ đến túi tiền của mình đấy. Thấy tay thợ phụ không tôn ông lên cao thêm nữa, ông nói riêng: “Nó như thế là phải chăng, nếu không ta đến mất tong cả túi tiền cho nó thôi”. Nhưng qua câu nói đó, ta thấy tính cách trưởng giả học đòi làm sang ở ông vẫn mãnh liệt lắm. Ông sẵn sàng cho hết cả tiền để được “làm sang”.
Trả lời câu 4 (trang 121, SGK): Lớp kịch này gây cười cho khán giả ở những khía cạnh nào?
Trả lời:
Khán giả cười ông Giuốc-đanh ngu dốt chẳng biết gì, chỉ vì thói học đòi làm sang mà bác phó may và tay thợ phụ lợi dụng đế kiếm chác. Người ta cười khi thấy ông ngớ ngẩn tưởng rằng phải mặc áo hoa ngược mói là sang trọng. Người ta cười khi thấy ông cứ moi mãi tiền ra đế mua lấy mấy cái danh hão.
Khán giả có thể cười đến vỡ rạp khi được tận mắt nhìn thấy trên sân khấu Ông Giuốc-đanh bị bốn tay thợ phụ lột quần áo ra, mặc cho bộ lễ phục lố lăng theo nhịp điệu, màu sắc dớ dẩn (không phải màu đen sang trọng lại may ngược hoa, ấy thế mà vẫn vênh vang ra vẻ ta đây là nhà quý phái).
Tham khảo:
Cảm nhận ý nghĩa đoạn kịch “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục của Molie
Mô-li-e được coi là nhà viết kịch có nhiều tác phẩm đạt đến mức cổ điển của thế giới. Vở kịch “Trưởng giả học làm sang” là một tác phẩm nổi tiếng của ông, trong đó trích đoạn “Ông Giuôc-đanh mặc lễ phục” là một trích đoạn tiêu biểu.
Lớp kịch này được chia làm hai cảnh, dấu hiệu nhận biết trên văn bản là đoạn chỉ dẫn sân khấu “Bốn tay thợ phụ bước vào…”. Cả hai cảnh này đều diễn ra trong không gian phòng khách nhà ông Giuốc-đanh – nhân vật chính. Không khí kịch càng về sau càng sôi động, cho đến cuối cảnh sau thì không khí hài kịch thực sự náo nhiệt. Trên văn bản, ta thấy ở cảnh trước gồm những lời thoại của hai nhân vật: ông Giuốc-đanh và bác phó may; cảnh sau là những lời đối thoại của ông Giuốc-đanh và tay thợ phụ.
Ở cảnh đầu của lớp kịch, tính cách của Giuốc-đanh thể hiện trong đối thoại với bác phó may. Nào là chuyện đôi bít tất, chuyện bộ tóc giả, lông đính mũ song chủ yếu là chuyện xoay quanh bộ lễ phục mới, với những bông hoa ngược! Làm sao mà biết được là do bác phó may đốt, do sơ suất hay cố ý may thành những bông hoa ngược? Chỉ biết rằng chính ông Giuôc-đanh phát hiện ra sự cố này. Khổ một cái, cái bác phó may với tay nghề khó hiểu này lại bảo rằng người quý tộc người ta vẫn mặc vậy. Mà ông Giuốc-đanh thì đang học đòi làm sang. Thế là ông hoàn toàn bị khuất phục bởi sự láu cá của bác phó may. Kịch tính được đẩy lên khi bác phó may liên tiếp ra đòn: “Nếu ngài muốn thì tôi sẽ xin may hoa xuôi lại thôi mà”, “xin ngài cứ việc bảo”. Sợ cơ hội làm sang sẽ tuột mất, ông Giuốc-đanh cứ chối đây đẩy: “Không, không”, “tôi đã bảo không mà”. Rồi lại chính ông Giuô’c-đanh phát hiện ra bác phó may ăn bớt vải của mình. Song bác phó may đã nắm chắc điểm yếu của đối phương, chỉ cần bác lảng sang chuyện thử bộ lễ phục mới là ông Giuốc- đanh chẳng còn để ý đến chuyện ăn bớt vải nữa. Chẳng thế mà bác phó may lại quá tự tin khi mặc đúng cái áo may bằng vải ăn bớt của ông Giuốc-đanh đến nhà ông Giuốc-đanh.
Sang cảnh sau của lớp kịch, tính cách trưởng giả học đòi làm sang của ông Giuốc-đanh tiếp tục được bộc lộ. Lần này đến lượt tay thợ phụ lợi dụng ông ta. Nếu anh này cứ gọi ông Giuốc-đanh như thông thường (ông hoặc ngài) thì đã không có chuyện gì xảy ra (và chắc cũng không được tiền uống rượu). Đằng này lại xưng tôn là “ông lớn”, lại đúng vào lúc ông đang mặc lễ phục và say sưa với cảm giác trở thành quý phái. Thế là y được thưởng vì tiếng “ông lớn” sang trọng ấy. Tay thợ phụ ranh ma này nắm thóp được ông Giuốc-đanh thì liên tiếp tung ra những câu nịnh hót để moi tiền. Và y đã rất thành công. Những tiếng “cụ lớn”, rồi “đức ông” đều đem lại cho y tiền thưởng. Không phải ông Giuốc-đanh không nghĩ gì đến túi tiền của mình (Nó như thế là phải chăng, nếu không ta không mất tong cả tiền cho nó thôi) mà là tại vì cái mộng quý phái còn lớn hơn cả sự tiếc tiền! Như vậy cũng đủ thấy tính cách học đòi làm sang của ông Giuốc-đanh mạnh đến mức nào.
Sự chênh lệch, mất cân xứng giữa nội dung và hình thức, giữa cái bên trong và bên ngoài là nguyên tác cơ bản để nhà văn tạo ra cái hài. Ở lớp kịch này cũng vậy, Mô-li-e đã xây dựng một nhân vật hài kịch bất hủ khi tạo ra sự khập khiễng, bất hoà giữa cái ngu dốt, ngớ ngẩn và cái sang trọng học đòi ở nhân vật ông Giuốc-đanh, với hàng loạt các tình tiết gây cười: bộ lễ phục với những bông hoa ngược, tiền thưởng cho những tiếng tôn xưng quý phái hão, vẻ vênh vác rởm hợm của ông Giuốc-đanh khi mặc lễ phục cũng như khi được tôn xưng… qua đó nhà văn chế giễu thói học đòi làm sang vẫn thường thấy trong xã hội.