doc-hieu-van-ban-dong-chi-chinh-huu

Đọc hiểu văn bản Đồng chí (Chính Hữu)

Đọc hiểu văn bản:

Đồng chí
(Chính Hữu)

I. Đọc hiểu chú thích.

1. Tác giả: Chính Hữu.

– Chính Hữu tên khai sinh Trần Đình Đắc (1926-2007), quê huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Thơ Chính Hữu chủ yếu viết về người lính và chiến tranh với cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ cô đọng.

– Tác phẩm chính: Đầu súng trăng treo (1966), Ngọn đèn đứng gác….

2. Tác phẩm:

– Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948 – sau chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947 ). Bài thơ được in trong tập “Đầu súng trăng treo” ( 1966) – tập thơ phần lớn viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

– Bố cục: 3 phần.

+ Bảy câu thơ đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí.

+ Mười câu thơ tiếp: Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.

+ Ba câu thơ cuối: Bức tranh đẹp về tình đồng chí, biểu tượng cao cả của cuộc đời người chiến sĩ.

– Nội dung: Ngợi ca tình đồng đội, đồng chí cao cả, thiêng liêng của các anh bộ đội Cụ Hồ – những người nông dân yêu nước mặc áo lính trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

II. Đọc hiểu văn bản:

1. Cơ sở hình thành tình đồng chí:

– Hai câu đầu: Hoàn cảnh xuất thân của những người chiến sĩ:

+ Xuất thân từ ngư dân miền biển (nước mặn đồng chua) và nông dân (đất cày lên sỏi đá).

+ Hoàn cảnh khó khăn, vất vả, nghèo khó.

→ Sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó là cơ sở cho sự đồng cảm giai cấp của những người lính cách mạng.

– Hai câu tiếp: Hoàn cảnh gặp gỡ:

+ “Đôi người xa lạ”: Hai đối tượng “anh”- “tôi” vốn không quen biết.

+ “Chẳng hẹn quen nhau”: Tuy sự quen nhau là không hẹn trước, nhưng chính việc cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng tham gia chiến đấu đã làm họ nảy nở tình cảm cao đẹp.

– 3 câu thơ tiếp: Sự gắn kết trọn vẹn giữa những người đồng chí:

+ Hình ảnh song hành “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”: Tình đồng chí nảy nở và bền chặt khi họ chia sẻ với nhau những khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ.

+ Những người chiến sĩ còn chia sẻ với nhau những gian khó đời thường “đêm rét chung chăn”, hiểu rõ về nhau để trở thành “tri kỉ”.

+ Hai tiếng “Đồng chí!” vang lên làm bừng sáng cả bài thơ, là kết tinh của một tình cảm cách mạng cao đẹp: tình đồng chí.

2. Biểu hiện cụ thể vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí đồng đội

– 3 câu đầu: Tình đồng chí là cảm thông những tâm sự thầm kín về hậu phương, quê hương.

+ Họ hiểu về hoàn cảnh ra đi của nhau: bỏ lại sau lưng những gì bình dị, thân thuộc nhất, những gì đã gắn bó với họ từ lúc chào đời: “ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa”.

+ Họ cùng nhau xác định lí tưởng: ra đi để bảo vệ những gì thân thương nhất, thái độ dứt khoát ra đi thể hiện quyết tâm chiến đấu.

→ Tình cảm đồng chí thân thiết, họ chia sẻ với nhau những gì riêng tư, thân thuộc nhất của họ.

– 7 câu tiếp: Đồng chí là cùng chia sẻ với nhau những gian lao thiếu thốn trong đời lính.

+ Họ san sẻ cùng nhau, cùng nhau trải qua những “cơn ớn lạnh”, những khi “sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi” ⇒ Hình ảnh chân thực, họ thương nhau khi phải trải qua những cơn sốt rét.

+ Họ chia sẻ cho nhau, cùng nhau trải qua những thiếu thốn về vật chất trong cuộc sống hằng ngày: “Áo anh rách vai…không giày”: Sự thiếu thốn về vật chất không làm tình cảm của họ phai nhạt đi, ngược lại làm cho họ quyết tâm hơn vì lí tưởng.

+ “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” Biểu hiện của tình đồng chí trực tiếp nhất, họ nắm tay nhau- cái nắm tay để sẻ chia, truyền hơi ấm, để hi vọng, để quyết tâm. Cử chỉ cảm động chan chứa tình cảm quý mến chân thành.

3. Biểu tượng đẹp, giàu chất thơ của tình đồng chí.

– 2 câu đầu: Nhiệm vụ gian khổ của người lính.

+ Hoàn cảnh: đêm, rừng hoang, sương muối.  Hoàn cảnh thật khắc nghiệt.

+ Nhiệm vụ của những người lính chiến: đứng gác, phục kích sẵn sàng “chờ giặc tới”.

→ Tình đồng chí được tôi luyện trong thử thách, gian lao, hình ảnh của họ đứng cạnh bên nhau vững chãi làm mờ đi sự gian khổ, ác liệt của chiến tranh, tình đồng chí giúp họ lãng mạn và bình thản trong mọi hoàn cảnh.

– Câu cuối “Đầu súng trăng treo”: hình ảnh kết thúc đầy bất ngờ, độc đáo, điểm sáng của toàn bài, gợi liên tưởng thú vị:

+ “Súng”: biểu tượng của chiến tranh.

+ “trăng”: biểu tượng cho thiên nhiên trong mát, cho hòa bình.

→ Sự hòa hợp giữa trăng và súng làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính, vừa nói lên ý nghĩa của việc họ cầm súng chiến đấu là bảo vệ cho cuộc sống thanh bình nơi quê hương. Tình đồng chí của họ càng thêm cao cả và ý nghĩa bội phần.

III. Tổng kết:

1. Nội dung:

– Bài thơ kết thúc nhưng lại mở ra những suy nghĩ mới trong lòng người đọc. Bài thơ đã làm sống lại một thời khổ cực của cha anh ta, làm sống lại chiến tranh ác liệt. Bài thơ khơi gợi lại những kỉ niệm đẹp, những tình cảm tha thiết gắn bó yêu thương mà chỉ có những người đã từng là lính mới có thể hiểu và cảm nhận hết được.

2. Nghệ thuật:

– Với nhiều hình ảnh chọn lọc, từ ngữ gợi cảm mà lại gần gũi thân thuộc, với biện pháp sóng đôi, đối ngữ được sử dụng rất thành công.

– Bài thơ thành công về nghệ thuật bởi thể thơ tự do linh hoạt, các chi tiết, hình ảnh được sử dụng mang tính tiêu biểu, chân thực, ngôn ngữ cô đọng, giản dị và giàu sức biểu cảm.


* Trả lời câu hỏi SGK:

Trả lời câu 1 (trang 130 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Dòng thơ thứ bảy có gì đặc biệt? Mạch cảm xúc và suy nghĩ trong bài thơ được triển khai thế nào trước và sau dòng thơ đó?

Trả lời:

– Dòng thứ bảy của bài thơ là một từ với hai tiếng “Đồng chí” để xưng hô trong các cơ quan, đoàn thể, đơn vị bộ đội. Dòng thứ bảy của bài thơ có cấu tạo rất đặc biệt. Cả dòng thơ chỉ có một từ, hai tiếng và dấu chấm cảm: Đồng chí! Kiểu câu đặc biệt này tạo một nốt nhấn. Nó vang lên như một sự phát hiện, một lời khẳng định. Nó còn tựa như cái bắt tay thân thiết giữa những con người. Nó như cái bản lề gắn kết hai đoạn: Đoạn trước là cơ sở, nguồn gốc của tình đồng chỉ, đoạn sau là những biểu hiện cụ thể, cảm động của tình đồng chí.

Trả lời câu 2 (trang 130 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Cơ sở hình thành tình đồng chí của người lính là gì?

Trả lời:

– Bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Đó chính là cơ sở cùng chung giai cấp xuất thân của những người cách mạng. Chính điều đó cùng với mục đích, lý tưởng chung đã họ từ mọi phương trời xa tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội cách và trở nên thân quen với nhau.

– Tình đồng chí được nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu: “Súng bên súng, đầu sát bẽn đầu”.

– Tình đồng chí, đồng đội nảy nở và thành bền chặt trong sự chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, đó là mối tình tri kỷ của những người bạn chí cốt, mà tác giả đã biểu hiện bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”.

Trả lời câu 3 (trang 130 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Những biểu hiện cảm động của tình đồng chí làm nên sức mạnh tinh thần của những người lính cách mạng. Phân tích ý nghĩa, giá trị những chi tiết, hình ảnh đó.

Trả lời:

+ Tình đồng chí là sự cảm thông sâu sắc tâm tư nỗi niềm của nhau. Những người lính gắn bó với nhau, họ hiểu đến từng nỗi niềm sâu xa, thầm kín của đồng đội mình:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.

Người lính đi chiến đấu đế lại sau lưng mình những gì thương quý nhất của quê hương: ruộng nương, gian nhà, giếng nước gốc đa.. Từ “mặc kệ” cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người lính. Nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương, ở ngoài mặt trận, họ vẫn hình dung thấy những hình ảnh thân thuộc nơi quê nhà xa xôi.

+ Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Ảo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến chống Pháp hiện lên thật cụ thể, chân thực: áo rách, quần vá, chân không giày… sự từng trải của đời người lính đã cho Chính Hữu “biết” được sự khổ sở khi bị những cơn sốt rét rừng hành hạ: người nóng sốt hầm hập đến ướt cả mồ hôi mà vẫn cứ ớn lạnh đến run người. Và nếu không có sự từng trải ấy cũng không thể nào biết được cái cảm giác của “miệng cười buốt giá”: trời buốt giá, môi miệng khô và nứt nẻ, nói cười rất khó khăn, có khi nứt ra chảy cả máu. Thế nhưng những người lính vẫn cười trong gian lao, bởi có hơi ấm và niềm vui của tình đồng đội “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm lòng đã chiến thắng cái lạnh ở “chân không giày” và thời tiết “buốt giá”. Trong đoạn “anh” và “tôi” luôn đi với nhau, có khi đứng chung trong một câu thơ, khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau. Cấu trúc ấy đã diễn tả gắn bó, chia sẻ của những người đồng đội.

Trả lời câu 4 (trang 130 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Ba câu thơ cuối gợi lên cho em những suy nghĩ gì về người lính và cuộc chiến đấu? Hãy phân tích vẻ đẹp và ý nghĩa của hình ảnh trong những câu thơ ấy.

Trả lời:

Ba câu cuối cùng kết thúc bài thơ bằng những hình ảnh thơ thật đẹp

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.

Nổi lên trên nền cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là hình ảnh cụ thể tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Họ đã “đứng cạnh nhau” giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút “chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả.

Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc: “Đầu súng trăng treo”. Đó là hình ảnh thật mà bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa rừng khuya: “ suốt đêm vầng trăng từ bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng đối với chúng tôi như một người bạn; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật..”. Nhưng đó còn là một hình ảnh độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú, sâu xa. “Súng” – biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực khốc liệt. “Trăng” – biểu tượng vẻ đẹp yên bình, mơ mộng và lãng mạn. Hai hình ảnh “súng” và “trăng kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính – chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. Hình ảnh ấy mang được cả đặc điểm của thơ ca kháng chiến – một nền thơ giàu chất hiện thực và dào cảm hứng lãng mạn. Vì vậy mà câu thơ này đã được Chính Hữu chọn làm nhan đề cho cả một tập thơ – tập Đầu súng trăng treo.

→ Đoạn kết bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội người lính.

Trả lời câu 5 (trang 130 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Theo em, vì sao tác giả lại đặt tên cho bài thơ về tình đồng độc của những người lính là Đồng chí?

Trả lời:

Bài thơ viết về tình đồng đội của người lính được tác giả đặt tên Đồng chí vì từ này có nghĩa chỉ những người cùng chung chí hướng, lí tưởng. Đây cách xưng hô của những người trong một đoàn thể cách mạng. Vì vậy tình đồng chí là bản chất cách mạng của tình đồng đội và thể hiện sắc tình đồng đội.

Trả lời câu 6 (trang 130 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Qua bài thơ này, em có cảm nhận gì về hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp?

Trả lời:

– Qua bài thơ về tình đồng chí, hiện lên vẻ đẹp bình dị mà cao cả người lính cách mạng. Cụ thế là anh bộ đội hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp:

– Họ xuất thân từ nông dân (“Quê hương anh… sỏi đá”).

– Họ sẵn sàng bỏ lại những gì quý giá thân thiết của cuộc sống nơi làng quê để ra đi vì nghĩa lớn: “Ruộng nương… lung lay”.

– Hai chữ “mặc kệ” nói được cái dứt khoát mạnh mẽ có dáng dấp “trượng phu”. Những người lính nông dân ấy vẫn gắn bó, nặng lòng với làng quê thân yêu. Họ không hề vô tình, nếu không đã chẳng thể cảm nhận sự nhớ nhung của quê hương: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra Lính”.

– Những người lính cách mạng trải qua những gian lao, thiếu thôn tột cùng. Những cơn sốt run người, trang phục phong phanh giữa mùa đông giá lạnh (áo rách, quần vá, chân không giày). Nhưng gian lao thiếu thôn càng làm nổi bật vẻ đẹp của anh bộ đội: sáng lên nụ cười của người lính (miệng cười buốt giá). Nhưng sáng ngời trong họ là tinh thần đồng đội và ý chí quyết tâm đánh giặc.


Luyện tập:

Viết đoạn văn trình bày cảm nhận của em về đoạn cuối bài thơ (ba câu cuối)

Trả lời:

– Trong bức tranh ấy nổi bật lên ba hình ảnh gắn kết với nhau: người lính, khẩu súng, vầng trăng. Trong cảnh rừng hoang sương muối, những người lính đứng bên nhau chờ giặc tới. Sức mạnh của tình đồng đội giúp họ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ. Bên cạnh họ còn có vầng trăng làm bạn.

– Hình ảnh đầu súng trăng treo còn mang ý nghĩa biểu tượng, gợi ra những liên tưởng phong phú, súng và trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ.


* Tài liệu đọc thêm:

Phân tích bài thơ ĐỒNG CHÍ của Chính Hữu.

  • Mở bài:

CHÍNH HỮU là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học kháng chiến chống Pháp và chống mỹ. Chính Hữu làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viế về người lính và chiến tranh. Thơ ông đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Bài thơ Đồng chí ra đời năm 1948, là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mạng của văn học thời kì kháng chiến chổng Pháp (1946 – 1954). Tác phẩm thể hiện hình tượng người lính cách mạng và sự gắn bó keo sơn của họ qua những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm.

  • Thân bài:

Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Tình đồng chí của những người lính dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu được thể hiện thật tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh, nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người lính cách mạng.

Tình đồng chí của người lính bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân. Mở đầu bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào hoàn cảnh của người lính:

“Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. Đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. “Anh” và “tôi”, hai người bạn mới quen, đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó. Hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tổ quốc. Những khó khăn ấy dường như không thể làm cho những người lính chùn bước:

“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.

Họ đến với Cách mạng cũng vì lý tưởng muốn dâng hiến cho đời. “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Chung một khát vọng, chung một lý tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào

Dường như tình đồng đội cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn,câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí !…”

Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ dưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Tình đồng chí, đồng đội được hình thành trên cơ sở cùng chung nhiệm vụ và lí tưởng cao đẹp. Theo tiếng gọi thiêng liêng  của Tổ quốc thân yêu, các anh đã cùng tập hợp dưới quân kì, cùng kề vai sát cánh trong đội ngũ chiến đấu để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng của thời đại.

Mối tính tri kỉ của những người bạn chí cốt được biểu hiện bằng một hình ảnh cụ thể, giản dị, gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Chính trong những ngày gian khó, các anh đã trở thành tri kỉ của nhau,để cùng chung nhau cái giá lạnh mùa đông, chia nhau cái khó khăn trong một cuộc sống đầy gian nan.

Dòng thơ thứ bảy trong bài thơ “Đồng chí” là một điểm sáng tạo, một nét độc đáo qua ngòi bút của Chính Hữu. Dòng thơ được tách riêng độc lập, là một câu đặc biệt gồm từ hai âm tiết đi cùng dấu chấm than, ngân vang như tiếng gọi tha thiết, tạo một nút nhấn, lắng lại. Hai tiếng “Đống chí” thật giản dị, đẹp đẽ, là điểm hội tụ, là nơi kết tinh bao tình cảm đẹp: tình giai cấp, tình bạn,tình người trong chiến tranh. Câu thơ có ý nghĩa như một bản lề gắn kết đoạn đầu và đoạn thứ hai của bài thơ, là điểm nhấn, là mạch cảm xúc chung cho toàn bài. Có thể nói, hai tiếng “Đồng chí” vang lên thật giản dị và mang ý nghĩa vô cùng thiêng liêng trong thơ ca kháng chiến.

Tình đồng chí của người lính Cách mạng được biểu hiện qua sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau. Các anh là những người lính gác tình riêng, ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với bao băn khoăn, trăn trở:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”.

Hai chữ “mặc kệ” thể hiện thái độ dứt khoát của người ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, mục đích đã chọn lựa:“Anh trai làng quyết đi giết giặc lập công”. Hình ảnh “gian nhà không” vừa gợi cái nghèo, cái xơ xác của những miền quê lam lũ, vừa gợi sự trống trải trong lòng người ở lại. “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” là cách nói tế nhị, giàu sức gợi. Quê hương nhớ người đi lính hay chính những người ra đi luôn nhớ về quê hương. Thủ pháp nhân hóa và hai hình ảnh hoán dụ đã biểu đạt sâu sắc tâm trạng, nỗi niềm của những người lính nơi chiến tuyến. Nhớ về quê hương cũng chính là cách tự vượt lên mình, vượt lên tình riêng vì sự nghiệp chung của đất nước.

Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý. Đối với những người nông dân, ruộng nương, nhà cửa những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng, họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ. Họ lớn lên trong những “gian nhà không mặc kệ gió lung lay”. Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc….. nhưng họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng tất cả những bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dẫu rằng” mặc kệ” nhưng trong lòng họ vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ văn, nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay đọng hồn thơ, hồn người.

Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa “giếng nước gốc đa” cũng có nỗi nhớ khôn nguôi với những người lính. Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chồng và những đôi trai gái yêu nhau.

Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi
áo anh rách vai
Quần anh có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”.

Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phải chăng sự khó khăn, vất vả, thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta còn nghèo, những người lính còn thiếu thốn quân trang, quân dụng, phải đối mặt với sốt rét rừng, cái lạnh giá của màn đêm. Chỉ đôi mảnh quần vá, cái áo rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng, nó gần gũi mà chân thực, không giả dối, cao xa. Tình cảm ấy lan tỏa trong lòng của tất cả những người lính.

Những chi tiết tả thực, hình ảnh sóng đôi đã góp phần tái hiện chân thực những khó khăn, gian khổ của cuộc đời người lính trong buổi đầu kháng chiến. Các anh đã cùng nhau gánh vác, cùng nhau chịu đựng… Chính tình đồng đội đã giúp họ lên cái “buốt giá” của mùa đông chiến đầu để rồi tỏa sáng nụ cười và càng thương nhau hơn. Hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” có sức gợi nhiều hơn tả với nhịp thơ chảy dài. Đây là cách thể hiện tình cảm rất lính. “Tay nắm lấy bàn tay” để truyền cho nhau hơi ấm của tình đồng đội, truyền cho nhau sức mạnh của tình đồng chí. Cái nắm tay ấy còn là lời hứa hẹn lập công.

Tình đồng chí thắm thiết là sẵn sàng chia sẻ cho đồng đội, kể cả sự sống::

“Là hớp nước uống chung, năm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chặt hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết”

(Nhớ – Hồng Nguyên)

Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cô lại chỉ với nụ cười – biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hòa bình cũng như khi xây dựng Tổ quốc, một nụ cười ngạo nghễ, yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng…

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giác tới”
“Đầu súng trăng treo”.

Nhịp thơ đều đều 2/2/2 – 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trong gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết. Vẫn đứng canh giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đã khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem vào cái chân thực của cả bài thơ, câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ.

Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:

Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ”

(Ánh trăng- Nguyễn Duy)

Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa giữa không gian, thời gian, ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà còn rực rỡ đến lạ kì.

“Đầu súng trăng treo”  là hình ảnh rất thực và cũng rất lãng mạn. “Súng” và “trăng” – hai hình ảnh tưởng như đối lập song lại thống nhất hòa quyện – là cứng rắn và dịu êm – là gần và xa – là thực tại và mơ mộng – là chất chiến đấu và chất trữ tình – là chiến sĩ và thi sĩ.  Hiếm thấy một hình tượng nào vừa đẹp,vừa mang đầy đủ ý nghĩa như “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu. Đây là một phát hiện, một sáng tạo bất ngờ về vẻ đẹp bình dị và cao cả trong tâm hồn người chiến sĩ. Hình tượng này góp phần nâng cao giá trị bài thơ và trở thành nhan đề cho cả tập thơ “Đầu súng trăng treo”.

Chất lính hòa vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất Cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. người chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau ” kề vai sát cánh” cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.

Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cùng một con đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bằng một sợi dây yêu thương vô hình. Bài thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.

Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tình. Tục ngữ thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.

  • Kết bài:

Bài thơ “Đồng chí” với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau.


Cảm nhận bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.

  • Mở bài:

Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Thơ của Chính Hữu vừa hàm súc, vừa trí tuệ; ngôn ngữ giàu hình ảnh; giọng điệu phong phú: Khi thiết tha, trầm hùng, khi thì sâu lắng, hàm súc. Trong số các sáng tác của ông phải kể đến bài thơ “Đồng chí”. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948 sau khi tác giả tham gia chiến dịch Việt Bắc Thu –  Đông (1947). Bài thơ đã khám phá và ca ngợi một tình cảm đẹp của người lính cách mạng, đó là tình đồng chí đồng đội thiêng liêng sâu nặng nhưng cũng thật gần gũi và giản dị.

  • Thân bài:

Trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, những chiến sĩ dũng cảm, kiên cường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc không ai khác chính là những người nông dân mặc áo lính. Từ cuộc đời thật họ bước vào trang thơ và tỏa sáng một vẻ đẹp mới, vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Mở đầu bài thơ tác giả đã sử dụng cấu trúc sóng đôi “Quê hương anh” và “làng tôi” đã gợi nên sự tương đồng trong cảnh ngộ của người lính. Họ đến từ những miền quê khác nhau nhưng họ luôn có sự đồng cảm với sự khó khăn, thiếu thôn của nhau. Tác giả đã mượn thành ngữ dân gian “nước mặn đồng chua” để nói về những vùng nước trũng, vùng ngập mặn ven biển rất khó làm ăn và canh tác. Cái đói, cái nghèo như manh nha từ trong làn nước. Và cách nói sáng tạo từ tục ngữ “đất cày nên sỏi đá” đã gợi cho chúng ta liên tưởng đến những vùng trung du, miền núi, đất đá bị ong hóa, bạc màu gây khó khăn trong việc sản xuất nông nghiệp.

Cái đói, cái nghèo như ăn sâu từ trong lòng đất. Những từ ngữ xưng hô “anh”, “tôi” kết hợp với giọng thơ nhẹ nhàng, hàm súc đã biến hai câu thơ trở thành lời thủ thỉ, tâm tình của hai người lính, đồng thời thể hiện sự gần gũi, thân thương đang nảy nở trong tâm hồn họ. Những người lính mỗi người mỗi nơi, kẻ ở miền xuôi, người ở miền ngược nhưng họ đều xuất thân từ những miền quê nghèo khó. Đó chính là cơ sở đồng cảm giai cấp giữa những người lính là sợi dây tình cảm gắn kết họ lại với nhau, để rồi từ đây họ trở thành đồng chí, đồng đội của nhau.

Càng chịu nhiều áp bức bởi chính quyền thực dân, họ càng thêm yêu quê hương và muốn đấu tranh giải phóng cho dân tộc, họ từ những con người xa lạ từ mọi phương trời tề tựu về dưới lá cờ cách mạng:

“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu.”

Từ những con người chưa quen biết, họ đã gặp nhau ở một điểm chung đó là: cùng chung nhịp đập trái tim, chung một lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng. Những cái chung đó đã thôi thúc họ lên đường nhập ngũ. Giống như những anh lính trong “Nhớ” của Hồng Nguyên:

“Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “Một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến”.

(“Nhớ” – Hồng Nguyên)

Hình ảnh thơ “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc, diễn tả sự gắn bó của người lính trong cuộc đời quân ngũ. “Súng bên súng” là cách nói hình tượng để diễn tả về những người lính cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu. Họ ra đi để giải phóng cho quê hương và cho chính cuộc đời họ. Còn “đầu sát bên đầu” là lối nói hoán dụ, tượng trưng cho ý chí quyết tâm chiến đấu của những người lính trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Điệp từ “Súng, bên đầu” càng khiến cho câu thơ thêm chắc khỏe đồng thời nhấn mạnh sự gắn kết, chung lí tưởng và nhiệm vụ chiến đấu. Nếu như ở hai dòng thơ đầu “Anh”, “tôi” được đặt trên mỗi dòng thơ thì đến đây “Anh với tôi” được đặt ngay trên cùng một dòng thơ để diễn tả sự khắng khít, không thể tách rời giữa những người lính. Sau những lời thủ thỉ tâm tình về xuất thân, về lí tưởng họ càng hiểu nhau và thân thiết với nhau hơn. Chính lí tưởng và mục đích chiến đấu là điểm chung lớn nhất để người lính gắn kết với nhau và trở thành đồng chí, đồng đội của nhau.

Bằng hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà giàu sức gợi, tác giả đã miêu tả rõ nét tình cảm của những người lính:

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.

Hình ảnh “Đêm rét chung chăn” đã khái quát hết những khắc nghiệt, gian khổ mà người lính phải trải qua. Trong hoàn cảnh ấy họ đã truyền cho nhau hơi ấm để vượt qua cái giá lạnh của núi rừng. Đó là một hình ảnh đẹp , chân thực và đầy ắp kỉ niệm. Đắp chung chăn đã trở thành biểu tượng của tình đồng chí. Nó khiến những con người “xa lạ” sát lại gần nhau, “quen nhau” để rồi giờ đây họ trở thành “tri kỉ” của nhau. Cả bài thơ chỉ có một chữ “chung” nhưng đã bao hàm được ý nghĩa sâu sắc và khái quát của toàn bài: chung cảnh ngộ, giai cấp, chung chí hướng, lí tưởng giải phóng dân tộc và chung cả những khó khăn, gian khổ.

Khép lại đoạn thơ là câu thơ có một vị trí đặc biệt, nó được cấu tạo bởi hai từ nhưng khi vang lên lại tạo nên nhiều cảm xúc và suy nghĩ cho người đọc:

“Đồng chí!”

Hai từ “Đồng chí” vang lên như một cấu trúc trúc quy nạp khẳng định tình đồng chí thiêng liêng dựa trên những cơ sở hình thành. Đồng thời nó còn thể hiện cảm xúc bị dồn nén, được thốt ra như một cao trào của cảm xúc, trở thành tiếng gọi thiết tha của tình đồng chí, đồng đội. Dòng thơ đặc biệt ấy còn được xem như là cái bản lề gắn kết: nó khái quát ý của đoạn thơ trước và mở ra ý thơ của đoạn sau. Dấu chấm cảm đi kèm với hai tiếng ấy chất chứa bao trìu mến, yêu thương. Đoạn thơ đã đi sâu vào khám phá, lí giải những cơ sở hình thành tình đồng chí. Đồng thời tác giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người nông dân hoàn toàn xa lạ trở thành người đồng chí, đồng đội sống chết có nhau.

Không chỉ dừng lại ở việc lí giải những cơ sở hình thành tình đồng chí, tác giả còn đi sâu vào khám phá và ca ngợi những biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”

Họ thấu hiểu cảnh ngộ, mối bận lòng của nhau. Đó là hoàn cảnh còn nhiều khó khăn, neo người, thiếu sức lao động. Các anh ra đi đánh giặc để lại nơi hậu phương với bộn bề công việc đồng áng, phải nhờ người thân giúp đỡ. Cuộc sống gia đình các anh vốn đã nghèo khó nay càng thêm thiếu thốn. Hình ảnh “gian nhà không” đã diễn tả hết cái nghèo về vật chất trong cuộc sống gia đình các anh, đồng thời diễn tả sự thiếu vắng các anh – người trụ cột trong gia đình. “Ruộng nương” và “căn nhà” là tài sản quý giá, gần gũi, gắn nhất đối với người nông dân, chúng ta vẫn còn nhớ cái chết đầy thương tâm của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao, chỉ vì muốn giữ lại mảnh vườn và căn nhà cho con Lão Hạc đã tìm đến cái chết thật đau đớn. Ấy vậy mà người lính lại sẵn sàng ra đi hi sinh lợi ích riêng tư vì lợi ích chung, vì lí tưởng giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do. Từ “mặc kệ” đã thể hiện thái độ dứt khoát, quyết tâm ra đi của người lính. Hình ảnh đẹp ấy còn được nhà thơ Nguyễn Đình Thi ghi lại trong bài “Đất nước”:

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.

(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)

Các anh ra đi mang theo nỗi nhớ quê nhà da diết, thường trực trong tâm hồn:

“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.

Hình ảnh “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” vừa được sử dụng như một hình ảnh ẩn dụ vừa được sử dụng như một phép nhân hóa diễn tả một cách tự nhiên và tinh tế tâm hồn người lính. Họ không giấu được nỗi nhớ nhà và nỗi nhớ người thân cũng như không ngừng nghĩ về những người mẹ, người vợ, người yêu… đang ở quê trông ngóng ngày họ trở về. Hình tượng người lính trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống pháp đã hiện lên tràn đầy khí thế, kiên cường, quyết tâm ra đi bảo vệ Tổ quốc.

Phải là người sống và chiến đấu trên những cánh rừng Tây Bắc những năm tháng kháng chiến chống Pháp, phải là người từng chứng kiến những cơn sốt rét rừng đến vàng vọt thì Chính Hữu mới hiểu hết những khó khăn, gian khổ mà người lính Tây Bắc năm ấy phải trải qua:

“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng tráng ướt mồ hôi”.

Bằng bút pháp tả thực, hình ảnh thơ chọn lọc nhà thơ đã tái hiện một cách chân thực và sinh động đồng cuộc sống, chiến đấu mà người lính phải trải qua đồng thời thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với những hi sinh của họ. Hình ảnh “từng cơn ớn lạnh”, “Sốt run người”, “vầng tráng ướt mồ hôi” đã tái hiện một sự khắc nghiệt đến cùng cực của những cơn sốt rét rừng đang tàn phá cơ thể người lính và có những người lính không qua khỏi, họ phải nằm lại nơi núi rừng Tây Bắc. Hình ảnh ấy ta đã từng bắt gặp trong thơ của Quang Dũng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”

(Tây Tiến – Quang Dũng)

Có thể nói, trong những cơn sốt rét rừng ấy, sự quan tâm, lo lắng giữa những người lính đã trở thành hơi ấm, điểm tựa vững chắc để họ vượt qua gian khổ, khó khăn. Không chỉ đối diện với sự khắc nghiệt của thiên nhiên trong sự thiếu thốn về thuốc men mà người lính còn đối mặt với sự thiếu thốn về vật chất, trang bị thiết yếu:

“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.”

Thủ pháp liệt kê: “Áo rách vai”, “quần vài mảnh vá”, “chân không giày” đã miêu tả một cách cụ thể, sinh động những thiếu thốn của người lính. Đó là những chi tiết rất thật, chắt lọc từ thực tế cuộc sống của họ. Tác giả đã tạo dựng nên những hình ảnh sóng đôi, đối xứng nhau để diễn tả sự gắn kết, đồng cảm giữa những người lính. Những khó khăn gian khổ càng được tô đậm khi tác giả đặt sự thiếu thốn bên cạnh sự khắc nghiệt của núi rừng. Dường như làn da của của người lính phải tiếp xúc trực tiếp với cái rét, sương muối, còn đôi chân trần phải làm bạn với chông gai, sên vắt của núi rừng. Hình ảnh ấy thật giản dị nhưng cũng thật cao đẹp:

“Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”

(Ngày về – Chính Hữu)

Đây là những hình ảnh chân thực về anh bộ đội thời kì đầu kháng chiến. Đầy những gian nan, thiếu thốn nhưng các anh vẫn xé rừng mà đi, đạp núi mà tiến.  Vẫn tưởng rằng những khó khăn gian khổ ấy đã giết chết ý chí của người lính, làm cho họ gục ngã. Nhưng không ở họ vẫn hiện lên ý chí kiên cường và lòng lạc quan cách mạng: “Miệng cười buốt giá”.

Hình ảnh “miệng cười buốt giá” đã cho thấy thái độ lạc quan, coi thường thử thách để vượt lên khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ của họ. Càng về cuối khổ thơ, những cảm xúc thiêng liêng về tình đồng chí, đồng đội như lắng đọng lại qua những hình ảnh thơ rất thực và rất cảm động, chứa đựng biết bao ý nghĩa:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Những cái nắm tay chất chứa bao yêu thương, trìu mến. Rõ ràng, tác giả đã lấy sự thiếu thốn đến cùng cực về vật chất để tô tâm sự giàu có vô cùng về tinh thần. Cái nắm tay là lời động viên chân thành để những người lính cùng nhau vượt qua khó khăn đồng thời cái nắm tay ấy cũng là sự cảm thông, truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh và đó còn là lời hứa lập công giết giặc, chiến đấu và chiến thắng quân thù. Có lẽ không ngôn từ nào có thể diễn tả cho hết tình đồng chí thiêng liêng ấy. Chính những tình cảm, tình đoàn kết gắn bó đã nâng đỡ bước chân người lính và sưởi ấm tâm hồn họ trên mọi nẻo đường chiến đấu.

Khép lại bài thơ là bức tranh đẹp đẽ về sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội:

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng dạnh bên nhau chờ giặc tới”.

Bức tranh được xây dựng với thời gian là một đêm phục kích chờ giặc và không gian là sự khắc nghiệt của cánh rừng hoang phủ đầy sương muối. Trên nền của bức tranh ấy người lính dần xuất hiện với tâm thế “đứng cạnh bên nhau”. Hình ảnh ấy đã cho thấy tinh thần đoàn kết, sát cánh bên nhau trong mọi hoàn cảnh. Tư thế “chờ giặc tới” là một tư thế chủ động, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu, chiến thắng kẻ thù của người lính.

Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh rất độc đáo, là điểm sáng của bức tranh về tình đồng chí, đồng đội rất thực và cũng rất lãng mạn:

“Đầu súng trăng treo”.

Đó là hình ảnh tả thực về những đêm hành quân, phục kích chờ giặc, nhìn từ xa vầng trăng như hạ thấp ngang trời. Trong tầm ngắm, người lính đã phát hiện một điều thú vị bất ngờ: trăng lơ lửng như treo trên đầu mũi sung. Bên cạnh đó hình ảnh này cũng rất lãng mạn bởi lẽ giữa không gian căng thẳng, khắc nghiệt lại “treo” một vầng trăng lung linh, rất thơ mộng. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” còn là hình ảnh giàu ý nghĩa. “Đầu súng” là tượng trưng cho chiến sĩ, chiến tranh còn “Trăng treo” là hình ảnh tượng trưng cho nhà thơ, người thi sĩ. Điều đó cho thấy chất thơ vẫn toát lên trong đời lính giữa hiện thực khốc liệt hay là vẻ đẹp của tâm hồn người lính – họ luôn hướng về một tương lai tươi sáng. Hình ảnh này xứng đáng trở thành biểu tượng của thơ ca kháng chiến: một nền thơ có sự kết hợp hài hòa giữa chất liệu hiện thực và cảm hứng lãng mạn.

  • Kết bài:

Bằng việc sử dụng lối miêu tả chân thực, tự nhiên nhưng cũng giàu sức gợi kết hợp với việc lựa chọn từ ngữ, hình ảnh giản dị, giàu ý nghĩa biểu tượng và giọng điệu tự nhiên, trầm bỗng thể hiện cảm xúc dồn nén chân thành. Chính Hữu đã thành công trong việc khám phá và ca ngợi tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng. Đồng thời, bài thơ còn nêu bật lên hình ảnh chân thực, giản dị và cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ  “Đồng chí” đã gợi cho ta nhiều cảm xúc, giúp ta hiểu thấu được những khó khăn và ý chí bảo vệ độc lập dân tộc của nhân dân ta thời kì kháng chiến chống Pháp. Đồng thời bồi đắp thêm cho ta lòng yêu nước và ý thức cá nhân trước với vận mệnh dân tộc. Cảm ơn nhà thơ Chính Hữu, người đã thả con diều nghệ thuật để đưa tác phẩm “Đồng chí” đến gần hơn với bạn đọc. Tác phẩm sẽ vẫn mãi là ngôi sao sáng trên bầu trời văn học nghệ thuật hiện đại Việt Nam và hình ảnh người lính Cụ Hồ sẽ sống mãi cùng non song bờ cõi:

Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt, đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

(Đất Nước trích Trường ca mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm).


Cảm nhận về vẻ đẹp của tình đồng chí qua 7 câu thơ đầu bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Qua đó liên hệ với một đoạn thơ cũng viết về đề tài người lính mà em biết để thấy được giống và khác nhau cơ bản giữa các tác giả khi viết về đề tài này.

* Hướng dẫn làm bài:

I. Mở bài:

– Đồng chí là một sáng tác tiêu biểu của nhà thơ Chính Hữu.

– Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp trong tình đồng chí, đồng đội của người lính cách mạng Việt Nam.

– Nổi bật nhất trong đó là đoạn thơ sau:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
(….…)
Đồng chí!”

II. Thân bài:

1. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ:

– Đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc, thu đông 1947. Đây là thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng khó khăn , gian khổ.

– Bài thơ được trích trong tập “Đầu súng trăng treo”. Thể thơ tự do. Hình ảnh, ngôn ngữ chân thực, giàu tính biểu cảm.

2. Cảm nhận thơ:

– Trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu ,Vẻ đẹp trong tình đồng chí của người lính cách mạng Việt Nam được thể hiện trước hết ở sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân trong đói nghèo:

“Quê hương anh , nước mặn đồng chua.
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

–  “Nước mặn đồng chua” thành ngữ giản dị, chân thực gợi lên hình ảnh những vùng ven biển ngập mặn, độ phèn cao, đất xấu, khó trồng trọt.

– Đất cày lên sỏi đá” (Đất cằn sỏi đá): Vùng trung du đồi núi bạc màu, đất cằn cỗi, cuộc sống con người cơ cực quanh năm. Đó là quê hương anh bộ đội.

– “Quê hương anh”, “làng tôi”: Hình ảnh sóng đôi mộc mạc, giản dị, tự nhiên như người lính đến với quân ngũ.

– Giọng thơ: thủ thỉ, tâm tình như lời tâm sự.

→ Có thể thấy, điểm tương đồng đầu tiên của những người lính là cùng cảnh ngộ xuất thân trong đói nghèo, gian khó. Điều này đã làm cho tình đồng chí trở nên gắn bó, keo sơn, bền chặt hơn. Có thể xem đây là những viên gạch đầu tiên, đặt nền móng vững chắc cho tình đồng chí, đồng đội về sau.

– Mặt khác, vẻ đẹp của tình đồng chí còn là chung lý tưởng, chung nhiệm vụ:

“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu”.

+ Từ “xa lạ” đến “quen nhau” rồi thân thiết. Tình cảm giữa những người lính được nâng lên một cung bậc mới, gần gũi hơn, gắn bó hơn.

+ “Chẳng hẹn mà quen nhau”: Cuộc kháng chiến chống Pháp là điểm hội tụ của lòng yêu nước. Những người lính từ khắp bốn phương trời cùng sát cánh trong một hàng ngũ cách mạng và trở thành đồng chí, đồng đội của nhau. Các anh là những người nông dân mặc áo lính.

+ “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”: Hình ảnh sóng đôi, điệp từ, nhịp thơ thanh thoát, rắn rỏi như nhịp bước hành quân của người chiến sĩ. “Súng bên súng” là cùng chung l, nhiệm vụ , chung hành động; “đầu sát bên đầu” là chung ý chí, chung lí tưởng, đánh đuổi thực dân Pháp , bảo vệ nước nhà. Vì thế tình đồng đội càng gắn bó hơn.

– Vẻ đẹp của tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn trên chiến trường:

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.

+ “Đêm rét chung chăn”: Hình ảnh thơ bình dị mà ấm áp nghĩa tình. Đó là sự thiếu thốn về tư trang, thiết bị. Hai, ba người lính cùng đắp chung một chiếc chăn mỏng giữa núi rừng Việt Bắc giá lạnh…. Trong gian khó, các anh càng thấu hiểu, yêu thương và đồng cảm với nhau hơn…

+ “Tri kỉ”: đôi bạn thân thiết, hiểu bạn như chính mình… Tình cảm của những người bạn chí cốt, cùng đồng cam cộng khổ trên chiến trường.

– Từ xa lạ đến quen nhau rồi thành đôi tri kỉ và cuối cùng là tình đồng chí keo sơn, gắn bó.

+ Đây là một câu thơ đặc biệt, kèm theo một dấu chấm cảm. Câu thơ ngắn nhất trong cả bài, chứa chan bao cảm xúc dồn nén bỗng vỡ òa.

+ Đồng chí: Tiếng lòng của nhà thơ Chính Hữu – một con người đã vào sinh ra tử ở chiến trường; Là tiếng gọi dành cho người bạn chiến đấu với biết bao trìu mến, thân thương.

+ Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng có tác dụng khép mở thật tài tình. Nó khép lại chặng đường từ “xa lạ” đến “quen nhau” để mở ra một vùng trời mới, cao hơn, sâu hơn. Đó là vùng trời của tình đồng chí, đồng đội.

+ Tình đồng chí ở đây không đơn thuần là tình quân ngũ mà là tình bạn, tình tri kỉ, tình người trong cuộc sống.

→ Tình đồng chí được hình thành trên những cơ sở: chung cảnh ngộ xuất thân, chung lí tưởng, nhiệm vụ, cùng chia sẻ gian lao trên chiến trường.

3. Liên hệ đoạn thơ cùng đề tài.

– Vẻ đẹp của tình đồng chí trong đoạn thơ trên gợi ta nghĩ đến những câu thơ trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy.
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm”.

* Giống nhau:

– Cùng viết về đề tài người lính cách mạng Việt Nam.

– Đều là thể thơ tự do.

– Tác giả đều là những người chiến sĩ…

– Đều ca ngợi những người lính cách mạng Việt nam ý chí kiên cường, dũng cảm, giàu lòng yêu nước, với tinh thần chịu đựng khó khăn, gian khổ, tinh thần lạc quan…

* Khác nhau:

– Về hoàn cảnh sáng tác: Đồng chí sáng tác 1948- đầu chống Pháp; Bài thơ về tiểu đội xe không kính; 1969- thời kì chống Mỹ.

– Về nội dung : Nếu người lính trong Đồng chí của Chính Hữu, tình đồng chí bắt nguồn từ việc chung cảnh ngộ xuất thân trong đói nghèo, chung lí tưởng, nhiệm vụ, chung khó khăn, gian khổ…càng thấu hiểu, yêu thương, đoàn kết, gắn bó thì người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm tiến Duật , tình đồng chí cũng bắt nguồn từ việc chia sẻ những gian khổ trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa. Bếp Hoàng Cầm dựng giữa trời, võng mắc chông chênh… đều là hình ảnh của cuộc sống tạm bợ, gian khổ, thiếu thốn. Nhưng tình đồng đội như tình anh em máu mủ, ruột thịt

– Về phong cách viết: mỗi người có một phong cách khác nhau. Thơ Chính Hữu cảm xúc dồn nén, cô đọng, hàm súc, hình ảnh chân thực, giản di, gợi cảm. Còn thơ Phạm Tiến Duật: sôi nổi, trẻ trung, tinh nghịch, đậm chất hiện thực ở chiến trường…

  • Kết bài:

– Tóm lại, chỉ bằng một đoạn thơ ngắn, hình ảnh, ngôn ngữ chân thực, gợi cảm, Chính Hữu đã thể hiện thành công hình ảnh người lính cách mạng Việt nam với tình đồng chí thiêng liêng, cao đẹp…

– Đoạn thơ gợi lên trong em cảm xúc yêu mến, tự hào và biết ơn những người lính cách mạng Việt Nam dũng cảm, kiên cường và giàu lòng yêu nước, đã chiến đấu hết mình vì nền độc lập của dân tộc.

Qua bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, hãy làm sáng tỏ ý kiến: Bài thơ, nhìn một cách tổng quát có vẻ đẹp của một loài hoa đồng nội. Ấy thế mà vẫn tốt tươi, càng ngắm nhìn càng đẹp, một vẻ đẹp khiêm nhường, giản dị.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang