»» Nội dung bài viết:
Phân tích “Người ngồi đợi trước hiên nhà” của Huỳnh Như Phương.
I. Mở bài:
– Huỳnh Như Phương là giảng viên đại học, đồng thời là nhà nghiên cứu phê bình văn học. Thế nhưng, tác phẩm của ông không rộn ràng khái niệm, không rộn ràng thuật ngữ, giáo sư Huỳnh Như Phương chinh phục người đọc bằng những nhận định sắc bén nhưng điềm đạm với một kiểu văn phong mềm mại nhưng quả quyết.
– Tản văn “Người ngồi đợi trước hiên nhà” trích “Thành phố – những thước phim quay chậm”, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2018)
II. Thân bài:
– “Người ngồi đợi trước hiên nhà” là câu chuyện về cuộc đời của nhân vật dì Bảy dưới góc nhìn của người cháu. Vợ chồng dì Bảy mới lấy nhau vỏn vẹn một tháng thì chồng dì phải tập kết ra Bắc. Khi ấy, dì Bảy tròn hai mươi tuổi. Suốt hai mươi năm ròng rã, dì vẫn chung thủy chờ chồng. Kể cả khi đã nhận giấy báo tử, dì vẫn không đi bước nữa.
1. Nhân vật dì Bảy.
a. Hoàn cảnh:
– Mới lấy nhau được 1 tháng, Dượng Bảy đã phải ra Bắc tập kết, đôi người đôi ngả
– Cuối năm 1975 gia đình nhận được giấy báo tử: dượng ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng à Hạnh phúc ngắn chẳng tày gang, dì dượng đã phải chia ly mãi mãi.
b. Tính cách, phẩm chất:
– Yêu thương chồng:
+ Mỗi ngày, sau khi đi làm đồng trở về, dì tôi thường ngồi trên bộ phản gõ ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng cùng những người đồng đội lần đầu đến nhà tôi xin chỗ trú quân.
+ Cầu nguyện cho dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường.
– Thủy chung, tình nghĩa:
+ Năm dượng đi, dì tròn 20 tuổi. Suốt 20 năm sau đó, có những người ngỏ ý, dạm hỏi, dì vẫn không lung lạc, với niềm tin sẽ có ngày dượng trở về.
+ Ngày hòa bình, dì tôi đã qua tuổi 40. Vẫn có người đàn ông để ý đến dì nhưng lòng dì đã không còn rung động.
→ Dù cho có cô đơn, lẻ loi dì Bảy vẫn một lòng thủy chung với người chồng đã khuất của mình
→ Dì Bảy là người phụ nữ đức hạnh, đại diện cho phẩm chất của những người mẹ, người vợ Việt Nam anh hùng hi sinh cả thanh xuân, tuổi trẻ của mình, nén nỗi đau cá nhân vào bên trong, âm thầm góp sức vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.
2. Nhân vật dượng Bảy.
a. Gia cảnh:
– Dượng Bảy người Tam Kỳ (Quảng Nam), mồ côi cả cha mẹ, đi bộ đội, đóng quân ở làng tôi, thầm yêu dì, rồi đơn vị đứng ra làm lễ cưới
b. Số phận đau thương:
– Chỉ một tháng sau khi lấy vợ đơn vị chuyển đi, đôi người đôi ngả.
– Dượng hi sinh trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng.
→ Dượng Bảy đại diện cho những người anh hùng ra đi bỏ lại đằng sau là gia đình, người thân. Chiến đấu để giải phóng dân tộc, để nhân dân được bình yên hạnh phúc. Nhưng lại không có cái may mắn được chứng kiến ngày đất nước được giải phóng.
c. Yêu thương gia đình.
– Thỉnh thoảng dượng lại gửi thư về, lá thư được gói trong bọc ni-lông bé tí
– Gần cuối cuộc chiến tranh, tin nhắn của dượng về nhà thường xuyên hơn
– Khi bị lỡ mất chuyến xe về thăm gia đình. Dượng nhờ một người đi đường báo tin cho gia đình và gửi tặng dì chiếc nón bài thơ.
→ Dượng Bảy luôn nhớ tới gia đình, luôn nhớ tới người vợ tảo tần, phải chịu nhiều thiệt thòi, vất vả.
3. Đánh giá.
– Qua câu chuyện về vợ chồng dì Bảy, một câu chuyện buồn về một người vợ mòn mỏi đợi chồng đi kháng chiến rồi nhận hung tin chồng đã chết, tác phẩm đã phản ánh sự tàn khốc của chiến tranh đã chia lìa biết bao gia đình, cướp đi những người con, người chồng, người cha của bao người phụ nữ, đồng thời ca ngợi những người phụ nữ tần tảo, thủy chung, son sắt họ chính là những người hi sinh âm thầm lặng lẽ, góp công lớn cho công cuộc giải phóng đất nước.
– Tác phẩm được viết với ngôn ngữ giản dị, gần gũi, lắng động, giàu cảm xúc. Cách miêu tả nhân vật chân thật, sinh động. Nghệ thuật kể chuyện nhẹ nhàng, lôi cuốn, tình huống truyện hấp dẫn, cảm động.
III. Kết bài:
– “Người ngồi đợi trước hiên nhà” ca ngợi đức hi sinh cao cả, thầm lặng, phẩm chất thủy chung, tình nghĩa của những người vợ có chồng tham gia chiến tranh. Xót thương cho những người lính phải bỏ mạng nơi chiến trường. Tố cáo chiến tranh tàn ác đã đẩy những gia đình vào cảnh li tán, chia lìa.
Bài văn tham khảo.
- Mở bài:
“Người ngồi đợi trước hiên nhà” của tác giả Huỳnh Như Phương cũng là câu chuyện về tình yêu, sự chờ đợi vượt qua giới hạn của thời gian của con người trong và sau chiến tranh.
- Thân bài:
Tản văn là câu chuyện về cuộc đời của nhân vật dì Bảy dưới góc nhìn của người cháu. Vợ chồng dì Bảy mới lấy nhau vỏn vẹn một tháng thì chồng dì phải tập kết ra Bắc. Khi ấy, dì Bảy tròn hai mươi tuổi. Suốt hai mươi năm ròng rã, dì vẫn chung thủy chờ chồng. Kể cả khi đã nhận giấy báo tử, dì vẫn không đi bước nữa. Ngôi kể thứ nhất, xưng là “tôi” đã giúp cho những chi tiết, sự kiện trong truyện hiện lên chân thật, khách quan hơn.
Bối cảnh mở đầu của câu chuyện chính là những năm tháng đất nước đang chìm trong đau thương của chiến tranh. Sau khi hiệp định Giơ- ne- vơ được ký kết vào cuối năm 1954, đầu năm 1955, có biết bao người dân vì đấu tranh cho Tổ quốc mà phải rời xa quê hương. Trong đó, ở phía sau là hình bóng những người mẹ, người vợ, những đứa con. Gia đình dì Bảy và dượng Bảy cũng là một trong số đó. Họ lấy nhau mới được một tháng thì dượng Bảy đã phải đi tập kết ra Bắc. Với một cặp vợ chồng mới cưới, thì việc ở bên cạnh nhau cũng là một cách để có thể vun vén hạnh phúc gia đình và chăm lo, đỡ đần cho nhau trong những ngày tháng gian khó. Ấy vậy mà dì Bảy và dượng Bảy phải sống trong cảnh mỗi người một phương.
Cuộc chiến tranh đã gieo vào lòng người đi, kẻ ở muôn vàn nỗi xót xa. Dù đã bị chia cắt làm nhưng dì Bảy và dượng Bảy vẫn luôn hướng về nhau trong suốt khoảng thời gian sau đó. Dì Bảy ở nhà vẫn luôn hướng ra Bắc vì người chồng còn dượng Bảy ở ngoài Bắc vẫn luôn hướng về quê nhà với gia đình và vợ. Dượng Bảy vẫn luôn tìm cách để liên lạc về với gia đình cho mọi người yên tâm: “Thỉnh thoảng một lá thư gói trong bọc ni lông bé tí chuyển đến nhà tôi giữa đêm khuya mang theo tin tức của dượng như một niềm hy vọng đáp lại nỗi trông chờ mòn mỏi của dì”. Tình yêu thương thì vẫn luôn tồn tại nơi trái tim mỗi người, vượt lên khoảng cách địa lí.
Khi dượng ra đi, dì Bảy tròn hai mươi tuổi. Suốt hai mươi năm sau đó có những người ngỏ ý dạm hỏi nhưng dì giữ niềm tin có ngày chồng mình sẽ trở về. Thế mới thấy tình yêu thương dì Bảy dành cho chồng lớn lao và cao cả biết bao: “Mỗi ngày, sau khi đi làm đồng trở về, dì tôi thường ngồi trên bộ phản gỗ ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng cùng những người đồng đội lần đầu đến nhà tôi xin chỗ trú quân”, “cầu nguyện cho dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường”.
Tưởng rằng sự chờ đợi sẽ được đền đáp xứng đáng, nhưng chiến tranh thật tàn độc khi cướp đi mạng sống của ba người trên năm người trong một gia đình: “dượng ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng”. Nước mắt như nghẹn lại, tác giả không khỏi thương xót thay cho dì Bảy trước sự hi sinh của chồng. Dì bảy luôn mong ngóng sự trở về của dượng, “mỏi mắt nhìn ra đường cái” nhưng mãi vẫn không có tin tức của chồng mình, “mãi đến năm 1975 mới nhận giấy báo tử”. Chiến tranh thì ắt hẳn sẽ có những giọt máu rơi xuống nền đất, sẽ có những xác người bạt ngàn nẻo đường. Với dì Bảy, đó là một nhát dao cứa thẳng vào trái tim khi mất đi người mà mình đã yêu thương chờ đợi.
Không còn chồng ở bên cạnh, mất đi bóng hình thân thuộc ấy nhưng lòng chung thủy của dì vẫn không bao giờ mất đi: “Dì Bảy ở lại chăm sóc bà, trông coi nhà thờ giữa khu vườn ít bàn tay vun xới.”, “Khi bà ngoại mất, dì về quê sống một mình trong ngôi nhà cũ. Dì sống cô đơn một mình, cứ vào chiều muộn dì lại ra ngồi trước hiên nhà nhìn con đường kéo dài như nỗi chờ mong trong vô vọng.” Nhân vật người cháu đã xót thương và cảm phục trước lòng chung thủy, kiên cường của dì.
- Kết bài:
Bằng sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và biểu cảm, ngôn ngữ giàu chất thơ, lắng đọng cảm xúc, Huỳnh Như Phương đã thành công trong việc khắc họa chân dung dì Bảy và dượng Bảy trong hoàn cảnh bấy giờ một cách chân thực nhất. Hình ảnh dì Bảy hiện lên cũng chính là biểu tượng cao đẹp cho người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất đức tính cao đẹp, luôn âm thầm chịu đựng, hy sinh tình cảm cá nhân để góp vào sự hòa bình Tổ quốc. Qua đó, tác giả đã phơi bày hiện thực tàn khốc của chiến tranh đẩy những gia đình vào cảnh chia ly, tan tác, đồng thời ca ngợi những người phụ nữ tần tảo, thủy chung, son sắt họ chính là những người hi sinh âm thầm lặng lẽ, góp công lớn cho công cuộc giải phóng đất nước.