Phân tích Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu (Trích Quan Âm Thị Kính)

phan-tich-thi-kinh-nuoi-con-cho-thi-mau-trich-quan-am-thi-kinh

Phân tích “Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu” (Trích Quan Âm Thị Kính)

I. Mở bài:

Quan Âm Thị Kính là tên thông tục một sử thi Hán Nôm ba hồi xuất hiện hậu kỳ trung đại, có sức ảnh hưởng nhất định tới nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam hiện đại. Đây cũng là tác phẩm có lượng tục bản và chuyển thể chỉ lớn sau Truyện Kiều.

– Trích đoạn “Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu” trích Quan Âm Thị Kính. Thị Mầu mang thai nhưng khi bị bắt nên đã khai gian là của Thị Kính, đến khi Thị Mầu sinh, mang con đến chùa ăn vạ, Kính Tâm đã nuôi đứa trẻ ròng rã 3 năm trời, việc xin sữa nuôi con, cuối cùng thân tàn lực kiệt, viết thư để lại cho cha mẹ rồi chết đi. Cuối cùng mọi người mới biết Kính Tâm là nữ, bèn lập đàn giải oan cho nàng.

II. Thân bài:

1. Thị Kính bị đổ oan và nuôi con cho Thị Mầu.

– Hoàn cảnh của Thị Kính:

+ Xuất thân là con gái nhà nghèo, lấy chồng tên Thiện Sỹ – con trai phú ông.

+ Sau một lần hiểu lầm rằng Thị Kính muốn sát gại chồng nên cha mẹ của Thiện Sỹ là Sùng ông, Sùng bà tức giận đuổi Thị Kính về quê. Ôm nỗi hận muốn quyên sinh nhưng thương cha mẹ già không ai báo hiếu nên cải trang nam nhi và đi tu ở chùa Vân Tự, đổi tên là Kính Tâm.

– Lí do bị Thị Mầu đổi oan:

+ Thị Mầu vốn tính lẳng lơ, dám say mê cả phật tử là Kính Tâm. Nàng ta lỡ dỡ có chửa với đầy tớ. Khi bị hào lí trong làng tra hỏi, nàng ta đổi tội ngay cho Kính Tâm. Cứ thế người phụ nữ tội nghiệp lại phải chịu nỗi oan ức lần thứ hai. Sau khi sinh con, Thị Mầu đem “trả” cho Kính Tâm:

“Tiểu đương tụng niệm khấn nguyền
Bỗng nghe tiếng trẻ tá lên giật mình
Ngoảnh đi thị dạ chẳng đành
Nhận ra thì hóa là tình chẳng ngay.
Gớm thay mặt dạn mày dày
Trân trân rằng giá con đây mà về”.

+ Vốn là chú tiểu đi tu, ngày đêm nghe tiếng “tụng niệm khấn nguyền” mà nay giật mình nghe tiếng khóc “tá” của trẻ em.

+ Là nhà sư chân chính nay vướng phải nghiệt duyệt. Điều này khiến Kính Tâm khó xử:

“Bỏ rơi đứa bé thì “chẳng đành”
Nhận đứa bé về chăm sóc thì hóa “tình chẳng ngay”.

– Kính Tâm quyết định nhận nuôi đứa trẻ:

“Cơ thiển kể đã khắt khe
Khéo xui, ra đứa làm rê riếu mình
Nhưng mà trong dạ hiếu sinh
Phúc làm thì phúc, dơ thì đành dơ
Cá trong chậu nước sởn sơ
Thì nay chẳng cứu, còn chờ khi nao
Chẳng sinh cũng chịu cù lao
Xót tình măng sữa nâng vào trong tay”.

+  Kính Tâm là người hiền lành, nhân hậu: từ cõi “cơ thiền” nay cũng trở nên khắt khe, dậy sóng.

+ Vốn để tâm thanh tịnh nay phải chịu oan Thị Mầu “khéo xui ra đứa” làm tổn hại đến thanh danh của mình. Thế nhưng vì quý trọng sinh mệnh “trong dạ hiếu sinh” mà Kính Tâm gạt bỏ đi hết lời gièm pha, cho dù người đời có bàn tán ra sao thì “phúc vẫn là làm phúc”.

2. Tình yêu mà Thị Kính dành cho đứa trẻ.

– Việc Kính Tâm nhận nuôi đứa trẻ khiến sư thầy sinh nghi:

“Bữa sau sư phụ mới hay
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì
Con ai mặc nấy can gì đa mang”.

+ Sư phụ hiểu và xót thương cho thân phận Kính Tâm, nhưng là người không rõ sự tình, là đứa con khác máu không phải do mình sinh ra thì hà cơ gì Kính Tâm lại nhận nuôi để làm nên nỗi oan ức tủi hổ.

– Sau cùng sư phụ cũng bị cảm hóa bởi nghĩa tử cao đẹp, tấm lòng từ bi của Kính Tâm:

“Bạch rằng: Muôn đội thầy thương
Xưa nay thầy dạy mọi đường nhỏ to
Dẫu xây chín đợt phù đồ
Sao bằng làm phúc cứu cho một người

Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào”.

+ Dù cho có xây chín tháp “phù đồ” cũng không thể bằng cứu một sinh mệnh.

– Từ tình người nhân hậu như “nước lã”, Kính Tâm đã dâng trọn tấm lòng để hòa vào “giọt máu tình thâm”, Kính Tâm coi đứa bé như là con đẻ của mình, hết mực yêu thương, nuôi nấng:

“Mẹ vò thì sữa khát khao
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền
Nâng niu xiết nỗi truân chuyên
Nhai cơm mướm sữa để nên con người
Đến dân ai cũng chê cười
Tiểu kia tu có trót đời được đâu
Biết chăng một đứa thương đâu
Mình là hai với Thị Mầu là ba”.

+ “Mẹ vò” – dẫu biết không phải con mình nhưng Kính Tâm vẫn lo cho đứa trẻ không thiếu bữa nào.

+ Ngày đêm chăm ẵm, nâng niu, xin sữa nuôi con, mong con khôn lớn.

+ Nhưng sự thật không được phơi bày.

– Miệng đời tàn ác, đồn thổi Kính Tâm không thể tu thành chính quả:

“Ra công nuôi bộ thực là
Nhưng buồn có trẻ hóa ra đỡ buồn
…”

+ Tình yêu, niềm hạnh phúc khi ngày ngày nghe tiếng trẻ thơ tíu tít bao nỗi lo âu, trăn trở hóa hư vô.

“Khi trống tàn, lúc chuông dồn
Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày”.

+ Không gian tĩnh mịnh nơi chùa thiêng xen lẫn cả “tiếng ru”.

+ Cảm nhận được tình mẫu tử không chỉ tồn tại ở chính cha mẹ sinh ra mình mà còn hòa vào nhau khi gặp tấm lòng từ bi giáng thế.

– Kính tâm làm tròn đạo làm cha, nuôi nấng con với đầy đủ điều kiện, có cả “lọ phương hoạt ấu”, “lọ thầy bảo anh”, hai thứ đó tượng trưng cho vị thầy thuốc bảo vệ sức khỏe của trẻ thơ.

“Phù trì như thổi ra ngay
Lọ phương hoạt ấu lọ thầy bảo anh
Bùa thiêng đã sẵn kim kinh
Ma vương kia cũng phải kiêng họ là”.

– Rồi thấm thoắt ba năm trôi đi, đứa bé đã lớn giống với “cha nuôi” của mình – Kính Tâm Giả trai đi tu trốn chùa Thanh Tịnh.

– Kính Tâm hi vọng con cái trưởng thành và có công danh rạng rỡ:

“Thoi đưa tháng trọn qua ngày
Mấy thu mà đã lên ba tuổi rồi
Con mày mà giống cha nuôi,
Hình dung ý tứ khác nào bán sinh.
Mai ngày đến lúc trường thành,
Cơ cầu dễ rạng tiền trình hơn xưa”.

– Kính Tâm cũng như bao người cha mẹ khác mong ước con mình mai này trưởng thành “cơ cầu” giỏi giang để nối nghiệp ông cha, mong cho “tiến trình” tương lai dẫn bước con càng thành công rạng rỡ hơn lớp ông cha con bây giờ.

Nhận xét:

Qua văn bản, nhân vật Thị Kính hiện lên là người phụ nữ dịu dàng, nết na, yêu thương gia đình và chồng con. Đặc biệt còn là một nhân vật giàu lòng bao dung, vị tha (thể hiện qua việc Thị Kính chấp nhận nuôi con cho Thị Mầu, dù bị mang tiếng xấu nhưng vẫn không oán hận, trách móc và vứt bỏ đứa trẻ, “phúc thì làm phúc, dơ thì đành dơ”, “Thì nay chẳng cứu, còn chờ khi nao”) hiểu lễ nghi, trọng phép tắc (“dẫu xây chính đợt phù đồ/ Sao bằng làm phúc cứu cho một người./ Vậy nên con phải vâng lời/ Mệnh người dám lấy làm chơi mà liều”) và kính Phật (“tụng niệm khấn nguyền”).

Tác giả đã xây dựng nhân vật Tiểu Kính theo hai tuyến: một tuyến là nhân vật đầy tâm sự, gánh chịu nhiều bi kịch trong cuộc đời, và một tuyến là nhân vật có đức hạnh, kiên định trong niềm tin và tôn trọng lễ nghi. Bằng cách xây dựng nhân vật này theo đúng tuyến nhân vật có đức hạnh, tác giả đã thể hiện rõ ý nghĩa của việc giữ gìn và trân trọng giá trị của lễ nghi và tôn trọng đức hạnh.

III. Kết bài:

– Nghệ thuật sáng tạo của tác phẩm “Thị kính nuôi con cho thị mầu” thành công trong việc khắc họa nhân vật, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố tự sự và trữ tình, là một ví dụ điển hình về tâm lý con người, làm cho câu chuyện dễ dàng thấm sâu và gây được tiếng vang với người đọc.

Bài tham khảo 1:

Truyện thơ Nôm là kho tàng văn học của dân tộc Việt Nam có giá trị to lớn. Kho tàng này chứa đựng, cất giữ biết bao kinh nghiệm sống, phong tục tập quán và cả kiến thức lịch sử về cộng đồng. Với thể thơ lục bát giàu biểu cảm, ca từ giản dị và âm hưởng tha thiết, truyện thơ Nôm mang đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó có một câu chuyện kinh điển mà cho đến nay nó vẫn luôn đọng lại trong tâm trí của người đọc về chiều sâu tư tưởng mà tác phẩm gửi gắm. Đó là đoạn trích “Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu” trích “Quan Âm Thị Kính”.

Đoạn trích trên nói về tấm lòng nhân từ của Thị Kính khi bị Thị Mầu vu oan và đùn đẩy đứa con cho mình nhưng vì sinh mạng nhỏ bé, Thị Kính vẫn giữ lại đứa bé để nuôi nấng.

Vậy hà cớ gì lại dẫn đến cơ sự nghiệp duyên đó, ta cùng bắt đầu xâu chuỗi lại từ đầu câu chuyện. Thị Kính xuất thân là con gái nhà nghèo, lấy chồng tên Thiện Sỹ, con của phú ông. Vào một đêm nọ, khi Thiện Sỹ ngồi đọc sách mà ngủ quên mất. Thị Kính thấy dưới cằm chồng mình có râu mọc ngược, nàng biết là điềm gở nên lấy kéo muốn cắt nó đi. Đúng lúc Thiện Sỹ bừng tỉnh thì hiểu lầm rằng Thị Kính muốn sát hại mình nên hô hoán làm to chuyện. Cha mẹ Thiện sĩ là Sùng ông, Sùng bà nổi giận đuổi Thị Kính về quê với cha mẹ đẻ. Thị Kính ôm nỗi oan trong lòng mà buồn tủi định quyên sinh, nhưng lại thương cha mẹ già không ai báo hiếu, phụ dưỡng, nàng cải trang thành nam nhi và đi tu ở chùa Vân Tự, đổi cả tên thành Kính Tâm.

Làng có nàng Thị Mầu vốn tính lẳng lơ, dám say mê cả phật tử là Kính Tâm. Nàng ta lỡ dở có chửa với đầy tớ. Khi bị hào lí trong làng tra hỏi, nàng ta đổi tội ngay cho Kính Tâm. Cứ thế người phụ nữ tội nghiệp lại phải chịu nỗi oan ức lần thứ hai. Sau khi sinh con, Thị Mầu đem “trả” cho Kính Tâm:

Tiểu đường tụng niệm khấn nguyền
Bỗng nghe tiếng trẻ tá lên giật mình
Ngoảnh đi thị dạ chẳng đành
Nhận ra thì hóa là tình chẳng ngay.
Gớm thay mặt dạn mày dày
Trân trân rằng giá con đây mà về.

Vốn là chú tiểu đi tu ngày đêm nghe tiếng “tụng niệm khấn nguyền” mà nay lại giật mình nghe tiếng khóc “tá” lên của trẻ em. Đường đường là nhà sư chân chính nay vướng phải nghiệt duyên, Kính Tâm rối bời khó sử, bỏ rơi đứa bé thì cũng “chẳng đành”, mà nếu nhận đứa trẻ về chăm sóc thì lại hóa “tình chẳng ngay”. Thật gớm thay nàng Thị Mầu trơ trẽn, “trân trận” không biết hổ thẹn mà chối bỏ con mình. Biết rằng khi nhận đứa bé về nuôi sẽ bị lời đàm tiếu dị nghị nhưng thương cho trái tim nhỏ bé, Kính Tâm vẫn nhất quyết nhận nuôi:

Cơ thiển kể đã khắt khe
Khéo xui, ra đứa làm rê riếu mình
Nhưng mà trong dạ hiếu sinh
Phúc làm thì phúc, dơ thì đành dở
Cá trong chậu nước sởn sơ
Thì nay chẳng cứu, còn chờ khi nao
Chẳng sinh cũng chịu cù lao
Xót tình măng sữa nâng vào trong tay

Tâm hồn Kính Tâm từ cõi “sơ thiền” nay cũng trở nên khắt khe, dậy sóng. “Cơ thiền” ở đây tức là chỉ tâm hồn đã đạt đến cảnh giới, tâm thanh tịnh không vướng bận chi. Vậy mà nay phải chịu oan Thị Mầu “khéo xui ra đứa” làm tổn hại đến thanh danh của mình. Thế nhưng vì quý trọng sinh mệnh “trong dạ hiếu sinh” mà Kính Tâm gạt bỏ đi hết lời gièm pha, cho dù người đời có bàn tán ra sao thì “phúc vẫn là làm phúc”. Dù chẳng mang công sinh thành như vẫn chịu “cù lao”, tức là chịu công ơn nuôi dưỡng. Thế nhưng việc làm đó của Kính Tâm cũng khiến Sư Cụ không khỏi sinh nghi:

Bữa sau sư phụ mới hay
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì
Con ai mặc nấy can gì đa mang

Quả thật trong mắt nhìn của ta thì có hiểu và xót thương cho thân phận Kính Tâm, nhưng là người không rõ sự tình, là đứa con “khác máu” không phải do mình sinh ra thì hà cớ gì Kính Tâm lại nhận nuôi con của người đã làm nên nỗi oan ức tủi hổ cho mình suốt đời. Ấy thế mà sư phụ cũng bị cảm hóa với nghĩa tử cao đẹp, tấm lòng từ bi của Kính Tâm:

Bạch rằng: Muôn đội thầy thương
Xưa nay thầy dạy mọi đường nhỏ to
Dẫu xây chín đợt phù đồ
Sao bằng làm phúc cứu cho một người

Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào

Kính Tâm thưa rằng dù cho có xây chín tháp “phù đồ” cũng không thể bằng cứu một sinh mệnh. Tấm lòng thiêng liêng cao đẹp đó đã nhận được lời khen từ sư Cụ, quả thật là người có lòng từ bi. Từ tình người nhân hậu như “nước lã”, Kính Tâm đã dâng trọn tấm lòng để hòa vào “giọt máu tình thâm”, Kính Tâm coi đứa bé như là con đẻ của mình, hết mực yêu thương, nuôi nấng:

Mẹ vò thì sữa khát khao
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền
Nâng niu xiết nỗi truân chuyên
Nhai cơm mớm sữa để nên con người
Đến dân ai cũng chê cười
Tiểu bao tử có trót đời được đâu
Biết chăng một đứa thương đâu
Mình là hai với Thị Mầu là ba

Ca dao xưa có câu nói ám chỉ việc tò vò nuôi con của người khác nhưng khi con lớn lên sẽ bỏ đi:

Tò vò mà nuôi con nhện
Đến khi nó lớn nó quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhện hỡi nhện đi đằng nào?

“Mẹ vò” ở đây cũng vậy, dẫu biết “nuôi con nhện” không phải là con của mình, dù không có “sữa khát khao” nhưng Kính Tâm vẫn lo cho đứa nhỏ không thiếu bữa nào. Kính Tâm ngày đêm chăm ẵm, nâng niu, xin sữa để nuôi con, mong con khôn lớn thành người. Đúng là miệng đời thật tàn ác, họ vẫn không ngừng đồn thổi rằng Kính Tâm có tu thành chính quả được đâu. Nhưng đến lúc này thì sự thật vẫn bị chôn vùi, thực giả ra sao thì chỉ có đứa ở, mình và “Thị Mầu là ba” biết rõ. Nuôi dưỡng một đứa trẻ thật không dễ dàng, nhưng dường như ngày ngày nghe tiếng trẻ thơ tíu tít, bao nỗi lo âu, trăn trở hóa hư vô:

Ra công nuôi bộ thực là
Nhưng buồn có trẻ hóa ra đỡ buồn
Khi trống tàn, lúc chuông dồn
Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày

Không gian tĩnh mịch, thanh tịnh nơi chùa linh thiêng nay xen lẫn cả “tiếng ru” con của Kính Tâm. Ta có thể cảm nhận được, tình mẫu tử không chỉ tồn tại ở chính cha mẹ sinh ra mình, nó còn hòa tan vào nhau khi gặp tấm lòng từ bi giáng thế. Tuy không phải con mình nhưng Kính Tâm vẫn tròn đạo là cha mẹ, đứa trẻ được nuôi nấng có đầy đủ điều kiện, có cả “lọ phương hoạt ấu”, “lọ thầy bảo anh”, hai thứ đó tượng trưng cho vị thầy thuốc bảo vệ sức khỏe của trẻ thơ. Thấm thoát đã ba năm trôi đi, đứa bé nay đã lớn, giống với “cha nuôi” của mình. “Cha nuôi” đó chính là Kính Tâm, người đã ỉa trai để đi tu trốn chùa thanh tịnh. Bậc cha mẹ ai mà không muốn con cái trưởng thành với công danh rạng rỡ. Kính Tâm cũng vậy, người mong ước con của mình mai này trưởng thành “cơ cầu” giỏi giang để nối nghiệp ông cha, người còn mong cho “tiến trình” tương lai dẫn bước con càng thành công rạng rỡ hơn lớp ông cha con bây giờ.

Đoạn trích “Thị Kính nuôi con Thị Mầu” với ca từ bình dị không kém phần sắc sảo của thể thơ lục bát cùng với lời thơ điêu luyện đã làm nổi bật nhân vật Thị Kính là một điển hình cho số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa phải gánh chịu bất công, oan nghiệt. Thông qua số phận cuộc đời Thị Kính, tác giả cho người đọc thấy được bức tranh xã hội phong kiến đầy rẫy mâu thuẫn. Đó như một lời cảnh tỉnh cho những con người đang có suy nghĩ lui về cửa Phật. Để có thể chọn con đường đắc đạo, ta phải chịu được khổ hạnh, oan ức cũng giống như Thị Kính, dù có oan uổng đến mấy nhưng cái tâm từ bi, thiện lành đã quật ngã được cảnh ngộ.

Bài tham khảo 2:

“Thị kính nuôi con cho Thị mầu” (trích vở kịch tuồng “Quan âm Thị kính”) ẩn chứa một câu chuyện kinh điển vẫn còn khắc sâu trong lòng độc giả, cùng với những suy nghĩ sâu sắc mà nó truyền tải. Trong đoạn trích trên, chúng ta thấy được tấm lòng nhân hậu của Thị kính khi bị buộc tội về một tội mà mình không phạm tội và bị buộc phải nuôi con cho Thị mầu. Dù rơi vào hoàn cảnh khó khăn nhưng Thị kính vẫn quyết định bảo vệ và chăm sóc mạng sống của đứa bé này như chính mạng sống của mình.

Ở một ngôi làng nọ, có một người phụ nữ tên là Thị mầu, vốn là một người hời hợt và ngu dại. Cô rất yêu chú tiểu Kính Tâm, thực ra là nàng Thị kính giả trai. Thị mầu vô tình có thai với người hầu trong nhà. Khi dân làng đưa cô ra xét xử, cô lập tức đổ lỗi cho Kính tâm. Thế là người phụ nữ tội nghiệp Thị Kính lại phải chịu đựng sự bất công Sau khi sinh con, Thị mầu “trả” đứa bé cho Kính tâm.

“Tiểu đường tụng niệm khấn nguyền

Trân trân rằng giá con đây mà về”.

Kính tâm là một chú tiểu đi tu suốt đêm ngày, nhưng bây giờ lại sợ hãi trước tiếng trẻ khóc. Có vẻ như vị tu sĩ thực sự đã bị cuốn vào vòng xoáy của số phận. Kính tâm bối rối và gặp khó khăn trong việc đưa ra quyết định. Không thể bỏ rơi đứa bé nhưng việc chấp nhận và chăm sóc đứa bé cũng không hề dễ dàng. Nếu để đứa bé đi, sẽ không thể tự an ủi mình, nhưng nếu ôm nó và chăm sóc nó, mọi thứ sẽ biến thành một ”tình yêu bất lợi”. Điều đáng tiếc là Thị mầu không hề tỏ ra thương xót, “vô liêm sỉ” và không chịu trách nhiệm với đứa trẻ do mình sinh ra. Kính tâm biết rằng việc nhận nuôi đứa bé sẽ dẫn đến những lời đàm tiếu và chỉ trích nhưng cô vẫn quyết tâm nhận nuôi đứa bé.

“Cơ thiển kể đã khắt khe

Xót tình măng sữa tăng vào trong tay”

Tâm hồn Kính tâm vốn xuất phát từ cõi ‘cơ thiển’ đã trở nên bồn chồn và nghiêm khắc. “Thiền” ở đây ám chỉ một trạng thái tâm trí trong đó người ta không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì và đã đạt đến một mức độ thanh tịnh nhất định. Nhưng giờ đây Kính tâm phải chịu oan ức dưới tay Thị mầu, kẻ đã xâm phạm danh dự của chàng. Tuy nhiên, Kính tâm coi trọng tầm quan trọng của cuộc sống và lòng hiếu thảo nên phớt lờ mọi lời chỉ trích, bàn tán. Cho dù người khác có nói xấu đến đâu, Kính tâm vẫn tin rằng “hạnh phúc nằm ở việc làm những điều tốt đẹp”. Tuy nhiên, hành vi của Kính tâm cũng không tránh khỏi làm dấy lên sự nghi ngờ ở sư thầy

“Bữa sau sư phụ mới hay
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì

Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào”

Thực tế, nhìn vào hoàn cảnh của Kính tâm, chúng ta có thể hiểu và đồng cảm với số phận của anh. Nhưng đối với những người không biết sự thật chính xác, rõ ràng là đứa trẻ “không có quan hệ huyết thống”, bản thân mình không sinh nó ra, tại sao Kính tâm lại đồng ý nhận con của người đã gây ra sự bất công và xấu hổ cho bản thân mình? Tuy nhiên, sư thầy cảm động trước lòng hiếu thảo của Kính tâm và ý nghĩa cao quý trong hành động của chàng. Kính tâm cho biết ngay cả việc xây dựng một tòa tháp chín tầng cũng không sánh được với công ơn cứu mạng. Việc vị sư cụ ngưỡng mộ trái tim thánh thiện và cao thượng này chứng tỏ Kính tâm là người có lòng nhân hậu. Kính tâm bằng cả trái tim và tâm hồn, với sự tôn trọng và dịu dàng đã coi đứa bé là của mình, yêu thương và chăm sóc nó bằng cả trái tim, như một người mẹ nuôi con.

“Mẹ vò thì sữa khát khao
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền

Biết chăng một đứa thương đâu
Mình là hai với Thị Mầu là ba”.

Kính tâm dù biết “nuôi nhện” không phải là nuôi con của mình nhưng cô vẫn băn khoăn không biết con mình có thiếu thứ gì không. Kính tâm ngày đêm chăm sóc con, yêu thương và tìm mọi cách để nuôi dạy, mong đứa trẻ sẽ lớn lên thành người tốt. Cuộc sống quả nhiên là tàn khốc. Vẫn còn có tin đồn rằng việc làm này ở Kính tâm không thể đạt được quả báo. Nhưng hiện tại, sự thật vẫn bị chôn vùi, chỉ có đứa bé, Kính tâm và Thị Mầu là biết sự thật. Nuôi dạy một đứa trẻ không phải là điều dễ dàng nhưng khi được nghe tiếng cười trong trẻo của bé mỗi ngày, những lo lắng của Kính tâm dường như tan biến.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.