Đọc hiểu văn bản:
VỀ CHÍNH CHÚNG TA
(trích “7 bài học hay nhất về vật lí” của Carlo Rovelli)
Tóm tắt:
Văn bản mở đầu bằng những câu hỏi được tác giả đặt ra, những câu hỏi ít người để ý đến, ít ai có thể trả lời mà không có sự băn khoăn, suy nghĩ. Con người có rất nhiều thứ chưa hiểu và thứ ít hiểu nhất là chính con người. Mối quan hệ giữa con người với thực tại, với thê giới và với tự nhiên được phản ánh qua văn bản. Con người là một phần của thế giới, là một phần tử nhỏ bé trong vũ trụ to lớn nhưng khả năng nhận thức thế giới của con người vẫn còn hạn hẹp và có nhiều sự sai lầm trong suy nghĩ. Con người cần củng cố thêm khả năng nhận thức thế giới của mình, nhận thức rõ hơn về mối quan hệ giữa chúng ta với thế giới. Mọi vật trong thế giới đều có sự tương tác và trao đổi thông tin về nhau, tất cả tri thức của con người đều phản ánh thế giới. Các giá trị đạo đức, cảm xúc của con người đều gắn với thực tại và những giọt nước mắt, nụ cười, lòng biết ơn hay sự trung thành,… đều là những thứ có thực, những hiện thực phức tạp của cuộc sống. Con người sống trong tựu nhiên, gắn với tự nhiên và tựu nhiên cũng chính là nhà của con người. Con người học hỏi, khám phá và cư trú trong tựu nhiên, gia tăng kiến thức về thế giới, khám phá vẻ đẹp huyền bí của thế giới.
Trước khi đọc.
Bạn suy nghĩ như thế nào về quan niệm cho rằng con người là chúa tể của tự nhiên?
Trả lời:
– Quan niệm cho rằng con người là chúa tể của tự nhiên chưa thật sự đúng. Con người là loài động vật có trí tuệ, có sự tiến hóa hoàn toàn nên có thể gây ảnh hưởng đến tự nhiên nhưng không có nghĩa là chúa tể của tự nhiên, khi tự nhiên bị ảnh hưởng quá nhiều thì con người sẽ phải gánh chịu hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ như việc chặt cây, phá rừng của con người dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, gây nên hiệu ứng nhà kính, nóng lên toàn cầu, ….
Trong khi đọc.
Câu 1.
Đề bài: Suy đoán về dụng ý của tác giả khi đặt vấn đề bằng hàng loạt câu hỏi.
Trả lời:
Dụng ý của tác giả khi đặt vấn đề bằng hàng loạt câu hỏi là:
– Trước hết là gây sự tò mò, hứng thú của người đọc đối với nội dung văn bản, với vấn đề được nêu lên trong văn bản.
– Những câu hỏi này có thể là chính những suy nghĩ của tác giả, cách tác giả triển khai vấn đề, những câu hỏi cần trả lời khi giải quyết vấn đề.
– Những câu hỏi được đặt ra ngay từ mở đầu cũng như một định hướng, hướng người đọc trả lười những câu hỏi để tiếp cận vấn đề một cách dễ dàng hơn.
Câu 2.
Đề bài: Câu nào trong đoạn văn thể hiện quan điểm của tác giả?
Trả lời:
– Câu văn thể hiện quan điểm của tác giả là “Trong bức tranh khoa học rộng lớn ngày nay, có nhiều thứ chúng ta không thể hiểu nổi, và một trong những thứ mà ta hiểu ít nhất là chính chúng ta.”
Câu 3.
Đề bài: Xác định hai từ khóa nói lên mối quan hệ giữa con người và thế giới trong đoạn văn.
Trả lời:
Hai từ khóa nói lên mối quan hệ giữa con người và thế giới trong đoạn văn là “chủ thể”. Chủ thể chính là con người và đối với nó thế giới là khách thể.
Câu 4.
Đề bài: Chú ý biện pháp tu từ điệp ngữ trong văn bản.
Trả lời:
– Phép điệp trong văn bản là điệp từ “chúng ta”, nhằm làm nổi bật vấn đề trong văn bản, vấn đề về con người, các suy nghĩ, niềm tin, tư tưởng của con người. Phép điệp từ “chúng ta” còn nhấn mạnh đối tượng chính của văn bản là chúng ta – con người.
Câu 5.
Đề bài: Chú ý các lí lẽ, bằng chứng được sử dụng để chứng minh luận điểm: “Tri thức của chúng ta chung quy đều phản ánh thế giới.”
Trả lời:
– Các lí lẽ, bằng chứng chứng minh luận điểm “Tri thức của chúng ta chung quy đều phản ánh thế giới” là về thông tin của tự nhiên như một giọt mưa chứa thông tin về sự xuất hiện của đám mây đen, áo hiệu trời mưa; đồng hồ chưa thông tin về thời gian trong ngày giúp ta xác định giờ làm việc; gió mang thông tin về cơn bão sắp đến để ta phòng tránh;… và cuối cùng là não của con người chính là nơi chứa tất cả những thông tin được tích lũy qua kinh nghiệm.
Câu 6.
Đề bài: Xác định câu văn khái quát ý tưởng chính của đoạn văn.
Trả lời:
– Câu văn khái quát ý tưởng chính của đoạn văn: “Chúng ta là một bộ phận hữu cơ của tự nhiên; chúng ta là tự nhiên, là một trong vô số các biểu hiện biến thiên vô cùng vô tận của nó.”
Câu 7.
Đề bài: Hình ảnh nào được sử dụng để nói về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên?
Trả lời:
– Hình ảnh được sử dụng để nói về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên là hình ảnh “nhà”, hình ảnh thể hiện mối liên kết, mối quan hệ mật thiết giữa con người và tự nhiên.
Trả lời câu hỏi.
Câu 1.
Đề bài: Trong văn bản, tác giả trình bày quan điểm về vấn đề gì? Quan điểm ấy đã được triển khai thành những luận điểm chính nào?
Trả lời:
– Trong văn bản, tác giả trình bày quan điểm về vấn đề con người, các mối quan hệ giữa con người với thực tại, con người với thế giới và con người với tự nhiên.
– Những luận điểm chính được triển khai là:
+ Trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên thì con người là “chủ thể”, quan sát thế giới với tư cách là người trong cuộc.
+ Tri thức của con người phản ánh thế giới. Mọi vật trong thế giới đều có sự tương tác, trao đổi thông tin về nhau.
+ Con người là một phần của tự nhiên, gắn với tự nhiên không thể tách rời và tự nhiên cũng chính là nhà của con người.
Câu 2.
Đề bài: Để làm sáng tỏ các luận điểm chính, tác giả đã sử dụng những bằng chứng, lí lẽ nào? Những thông tin khoa học trong văn bản có ý nghĩa gì trong việc làm sáng tỏ những luận điểm chính?
Trả lời:
– Để làm sáng tỏ các luận điểm chính, tác giả đã sử dụng những bằng chứng, lí lẽ là:
+ Con người là một phần của thế giới, nằm trong nó và quan sát nó. Niềm tin, tư tưởng, tín ngưỡng của con người đều được hình thành từ sự quan sát bên trong thế giới, gắn với thế giới. Vậy nên con người chỉ là một phần rất nhỏ bé của vũ trụ to lớn này.
+ Bằng chứng về sự thông tin về nhau của tự nhiên như một giọt mưa chứa thông tin về sự xuất hiện của đám mây đen, áo hiệu trời mưa; đồng hồ chưa thông tin về thười gian trong ngày giúp ta xác định giờ làm việc;… và cuối cùng não của con người chính là nơi chứa tất cả những thông tin được tích lũy qua kinh nghiệm.
+ Con người không thể tách khỏi tự nhiên; các giá trị đạo đức, tình yêu của con người đều mang tính hiện thực. Giá trị cảm xúc của con người làm nên xã hội và cũng là biểu hiện của tự nhiên.
+ Tự nhiên là nhà của con người, thế giới đa dạng, đầy màu sắc là nơi con người học hỏi, cư trú, nơi tìm hiểu và thỏa mãn sự hiếu kì bẩm sinh của con người.
– Những thông tin khoa học trong văn bản giúp cho những luận điểm chính trong văn bản sáng rõ hơn, logic hơn và có thêm sức thuyết phục cho việc nêu ra các bằng chứng, lí lẽ chứng minh luận điểm.
Câu 3.
Đề bài: Chỉ ra và phân tích tác dụng của các yếu tố miêu tả, biểu cảm, các biện pháp tu từ trong văn bản.
Trả lời:
– Các yếu tố miêu tả, biểu cảm là:
+ Miêu tả sự trao đổi thông tin trong tự nhiên, thông tin từ giọt mưa, tia sáng, đồng hồ, gió,… và hình ảnh “nhà” trong mối quan hệ giữa tự nhiên và con người. Yếu tố miêu tả giúp người đọc hình dung rõ hơn về các bằng chứng được nêu trong đoạn văn, đoạn văn thêm phần sinh động hơn.
+ Tác giả bày tỏ cảm xúc, quan niệm về con người và tự nhiên, đặt ra những câu hỏi mở đầu vấn đề cũng như suy nghĩ của bản thân về vấn đề này. Yếu tố biểu cảm được sử dụng khi nêu những luận điểm chính, thể hiện suy nghĩ, cảm xúc của tác giả góp phần làm rõ hơn luận điểm, người đọc cũng tiếp cận vấn đề dễ hơn.
– Biện pháp tu từ được sử dụng là biện pháp điệp từ “chúng ta”. Tác giả sử dụng biện pháp điệp từ xuyên suốt văn bản để nhấn mạnh đối tượng của vấn đề là chúng ta – con người, làm rõ hơn về các mối quan hệ giữa con người với thực tại, con người với thế giới và con người với tự nhiên.
Câu 4.
Đề bài: Tác giả đã trình bày quan điểm về mối quan hệ giữa con người và thực tại từ góc nhìn nào, với một thái độ như thế nào?
Trả lời:
– Tác giả đã trình bày quan điểm về mối quan hệ giữa con người với thực tại từ góc nhìn bên trong, góc nhìn của con người là một phần thế giới, gắn với thực tại. Tác giả nêu lên những thứ có thực, những thứ hiện hữu ở thực tại và nó liên quan đến con người. Thái độ của tác giả với quan điểm này là một thái độ đồng ý, chấp nhận quan điểm này và chứng minh sự đúng đắn của nó.
Câu 5.
Đề bài: Tác giả nghĩ gì về khả năng nhận thức thế giới của con người?
Trả lời:
– Tác giả nghĩ rằng con người chưa thật sự nhận thức được hết về thế giới. Con người nghĩ rằng mình đã hiểu hết thế giới nhưng sự thật là chỉ hiểu một phần nhỏ của thế giới. Khả năng nhận thức thế giới của con người chưa đủ để con người coi mình là trung tâm, là chúa tể. Tác giả cho rằng con người cần nâng cao hơn khả năng nhận thức thế giới.
Câu 6.
Đề bài: “Tự nhiên là nhà của chúng ta, và sống trong tự nhiên nghĩa là chúng ta đang ở nhà của mình.” Bạn nghĩ gì về nhận định của tác giả?
Trả lời:
– Nhận định “Tự nhiên là nhà của chúng ta, và sống trong tự nhiên nghĩa là chúng ta đang ở nhà của mình” của tác giả là đúng đắn. Tự nhiên và con người có mối quan hệ gắn bó với nhau không thể tách rời, hai đối tượng có sự ảnh hưởng lẫn nhau. Tự nhiên là nơi con người cư trú, nơi con người khám phá, học hỏi, thỏa mãn cái sự hiếu kì bẩm sinh của mình. Con người không thể sống mà thiếu tự nhiên cũng như con người không thể sống mà không có nhà – nơi để ở. Vì vậy, tôi đồng ý với nhận định của tác giả.
Kết nối đọc – viết.
Nhận thức nào từ văn bản Về chính chúng ta mà bạn muốn mang theo trong hành trang cuộc sống của mình? Hãy viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) để chia sẻ về điều này.
Bài làm:
Văn bản viết về những vấn đề liên quan đến con người, những mối quan hệ giữa con người với thực tại, tự nhiên và thế giới cùng với những nhận thức mà con người cần có. Để hành trang cuộc sống của mình được đầy đủ hơn, tôi muốn mang theo mình nhận thức về khả năng hiểu biết thế giới, củng cố thêm những kiến thức cần thiết về cuộc sống. Con người là một phần của thế giới và tự nhiên, không thể tách rời với thế giới, con người quan sát thế giới từ bên trong để tìm hiểu những thứ thú vị hơn. Hiểu biết thế giới là một thứ không thể thiếu trong hành trang cuộc sống để cuộc sống đầy đủ hơn, kinh nghiệm sống phong phú hơn. Nhận thức thế giới của con người còn rất nhiều sự thiếu sót, con người nghĩ mình là trên hết, là trung tâm nhưng thực ra con người chỉ là một phần rất nhỏ bé của thế giới này. Con người tìm hiểu thế giới và những tri thức học được cũng phản ánh thế giới này. Việc nhận thức thế giới, tìm hiểu thế giới giúp ta nâng cao khả năng hiểu biết, củng cố thêm kho tàng tri thức của bản thân và đặc biệt giúp ta có thêm kĩ năng sống, kinh nghiệm sống hữu ích.