Cảm nhận bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du
- Mở bài:
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, là nhà thơ hiện thực và nhân đạo lớn nhất trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX. Ông không chỉ nổi tiếng với “Truyện Kiều” mà ông còn là nhà thơ sáng tác bằng chữ Hán điêu luyện. “Thanh Hiên thi tập” là những sáng tác bằng chữ Hán thể hiện tình cảm sâu sắc của Nguyễn Du với thân phận con người – nạn nhân của chế độ phong kiến. Trong đó, bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” là một trong những sáng tác đưọc nhiều người biết đến, thể hiện sâu sắc tư tưởng Nguyễn Du và làm người đọc xúc động vì tình cảm nhân đạo cao cả của nhà thơ.
- Thân bài:
Độc Tiểu Thanh kí có nghĩa là “đọc tập Tiểu Thanh kí” của nàng Tiểu Thanh. Đó là người con gái có thật, sống cách Nguyễn Du 300 năm trước ở đời Minh (Trung Hoa). Nàng là người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì làm lẽ nên bị vợ cả ghen, đày ra sống ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Buồn rầu, nàng sinh bệnh chết và để lại tập thơ. Nhưng vợ cả vẫn ghen nên đốt tập thơ, chĩ còn lại một số bài thơ tập hợp trong “phần dư”. Bản thân cuộc đời Tiểu Thanh cũng đã để lại niềm thuơng cảm sâu sắc cho Nguyễn Du.
Cảm hứng xuyên suốt toàn bài được diễn tả trong khuôn khổ cô đúc của thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Nguyễn Du khóc người cũng để tự thương mình. Dù là cảm xúc về một cuộc đời bất hạnh đã cách ba trăm năm, nhưng thực chất cũng là tâm sự của nhà thơ trước thời cuộc.
Hai câu mở đầu của bài thơ giúp người đọc hình dung ra hình ảnh của nhà thơ trong giờ phút gặp gỡ với tiếng lòng của Tiểu Thanh :
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.”
(Tây hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)
Hai câu thơ dịch đã thoát ý nguyên tác nên làm giảm đi phần nào hàm ý súc tích của câu thơ chữ Hán. Nguyễn Du không nhằm tả cảnh đẹp Tây Hồ mà chỉ mượn sự thay đổi của không gian để nói lên một cảm nhận về biến đổi của cuộc sống. Cách diễn đạt vừa tả thực vừa gợi ý nghĩa tưọng trưng. “Tây hồ hoa uyển” (vườn hoa Tây Hồ) gợi lại cuộc sống lặng lẽ của nàng Tiểu Thanh ở vườn hoa cạnh Tây Hồ – một cảnh đẹp nổi tiếng của Trung Hoa. Nhưng hàm ý tượng trưng được xác lập trong mối quan hệ giữa “vườn hoa – gò hoang”. Dường như trong cảm quan Nguyễn Du, những biến thiên của trời đất đều dễ khiến ông xúc động. Đó là nỗi niềm “bãi bể nương dâu” ta đã từng biết ở Truyện Kiều. Nhìn hiện tại để nhớ về quá khứ, câu thơ trào dâng một nỗi đau xót ngậm ngùi cho vẻ đẹp chỉ còn trong dĩ vãng.
Trong không gian điêu tàn ấy, con người xuất hiện với dáng vẻ cô đơn, như thu mọi cảm xúc trong hai từ “độc điếu”. Một mình nhà thơ ngậm ngùi đọc một tập sách (nhất chỉ thư). Một mình đối diện với một tiếng lòng Tiểu Thanh 300 năm trước, câu thơ như thể hiện rõ cảm xúc trang trọng thành kính với di cảo của Tiểu Thanh. Đồng thời cũng thể hiện sự lắng sâu trầm tư trong dáng vẻ cô đơn. Cách đọc ấy cũng nói lên được sự đồng cảm của nhà thơ với Tiểu Thanh, “điếu” là bày tỏ sự xót thương với người xưa. Không phải là tiếng “thổn thức” như lời thơ dịch, mà nước mắt lặng lẽ thấm vào trong hồn nhà thơ.
Hai câu thực đã làm sáng tỏ cho cảm giác buồn thuơng ngậm ngùi trong hai câu đề :
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”.
(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)
Nhà thơ mượn hai hình ảnh “son phấn” và “văn chương” để diễn tả cho những đau đớn dày vò về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh gửi gắm vào những dòng thơ. Theo quan niệm xưa, “son phấn” – vật trang điểm của phụ nữ có tinh anh (thần) vì gắn với mục đích làm đẹp cho phụ nữ. Cả hai câu thơ cùng nhằm nhắc lại bi kịch trong cuộc đời Tiểu Thanh – một cuộc đời chỉ còn biết làm bạn với son phấn và văn chương để nguôi ngoai bất hạnh.
Mượn vật thể để nói về người. Gắn với những vật vô tri vô giác là những từ ngữ chỉ cho tính cách, số phận con người như “thần” và “mệnh”. Lối nhân cách hóa thể hiện rõ cảm xúc xót xa của nhà thơ về những bất hạnh của kiếp người qua số phận của Tiểu Thanh. Kết cục bi thảm của tiểu Thanh xuất phát từ sự ghen tuông, lòng đố kỵ tài năng của người đời. Dù chỉ là những đồ vật vô tri vô giác thì chúng cũng phải chịu số phận đáng thương như chủ nhân: son phấn bẽ bàng, văn chương đốt dở. Hai câu thơ đã gợi lên sự tàn hẫn của bọn người vô nhân trước những con người tài hoa. Đồng thời, cũng thể hiện nhận thức của Nguyễn Du vốn rất nhạy cảm trước cuộc đời của khách “hồng nhan bạc phận”, gắn với quan niệm “tài mệnh tương đố” của Nho gia. Vật còn như thế, huống chi người. Vượt lên trên những ảnh hưởng của thuyết thiên mệnh là cả tấm lòng giàu cảm thương của Nguyễn Du.
Từ số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành cái nhìn về con người trong xã hội phong kiến:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư”
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)
Nỗi oan của Tiểu Thanh không phải chỉ của riêng nàng mà còn là kết cục chung của những người có tài từ “cổ” chí “kim”. Nhà thơ gọi đó là “hận sự”, một mối hận suốt đời nhắm mắt chưa yên. Trong suy nghĩ ấy, có lẽ Nguyễn Du còn liên tưởng đến bao cuộc đời như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ – những người có tài mà ông hằng ngưỡng mộ – và bao người tài hoa bạc mệnh khác nữa. Những oan khuất bế tắc của nghìn đời “khó hỏi trời” (thiên nan vấn). Câu thơ đã giúp ta hình dung rõ cuộc sống của những nạn nhân chế độ phong kiến, dồn nén thái độ bất bình uất ức ủa nhà thơ với thời cuộc, đồng thời cũng thể hiện một sự bế tắc của Nguyễn Du.
Khóc người để thương mình, cảm xúc đồng điệu đã làm thành câu thơ bất hủ “phong vận kỳ oan ngã tự cư” (Ta tự cho mình cũng ở trong số những kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã). Ở đó là tình cảm chân thành đồng điệu của Nguyễn Du, cũng thể hiện tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa nhân đạo rất đẹp và rất sâu của ông.
Không phải chỉ một lần nhà thơ nói lên điều này. Ông đã từng hóa thân vào nàng Kiều để khóc thay nhân vật, ông đã từng khẳng định một cách đầy ý thức “thuở nhỏ, ta tự cho là mình có tài”. Cách trông người mà ngẫm đến ta ấy, trong thi văn cổ điển Việt Nam trước ông có lẽ hiếm ai thể hiện sâu sắc như vậy. Tự đặt mình “đồng hội đồng thuyền” với Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã tự phơi bày lòng mình cùng nhân thế. Tâm sự chung của những người mắc “kỳ oan” đã đưọc bộc bạch trực tiếp mạnh mẽ trong tiếng nói riêng tư khiến người đọc cũng không khỏi ngậm ngùi. Tâm sự ấy không chỉ của riêng Nguyễn Du mà còn là nỗi niềm của các nhà thơ thời bấy giờ.
Khép lại bài thơ là những suy tư của Nguyễn Du về thời thế:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hà hà nhân khấp Tố Như”.
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Ngưòi đời ai khóc Tố Như chăng)
Khóc cho nàng Tiểu Thanh ba trăm năm trước bằng giọt lệ chân thành của trái tim đồng điệu, dòng suy tưởng đã đưa nhà thơ đến ba trăm năm sau cùng một mối hồ nghi khó giải tỏa. Tiểu Thanh còn có tấm lòng tri kỷ của Nguyễn Du tìm đến để rửa những oan khiên bằng giọt nưóc mắt đồng cảm. Còn nhà thơ tự cảm thấy sự cô độc lẻ loi trong hiện tại. Câu hỏi người đời sau ẩn chứa một khát khao tìm gặp tấm lòng tri âm tri kỷ giữa cuộc đời. (Đó cũng là tâm trạng của Khuất Nguyên – “người đời say cả một mình ta tỉnh”, cách Nguyễn Du hai nghìn năm; của Đỗ Phủ, cách Nguyễn Du một nghìn năm : “Gian nan khổ hận phồn sương mấn”)
Nhà thơ tự thể hiện mình bằng tên chữ “Tố Như” không phải mong “lưu danh thiên cổ” mà chỉ là tâm sự của một nỗi lòng tha thiết với cuộc đời. Câu thơ còn là tâm trạng bi phẫn của nhà thơ trước thời cuộc. Khóc ngưòi xưa, nhà thơ tự khóc cho chính mình, giọt lệ chảy quanh kết lại một bóng hình Nguyễn Du, lặng lẽ cô đơn khiến người đọc phải se lòng khi ngẫm đến những nỗi đau thấm thía và dày vò tinh thần của những ngưòi tài hoa phải sống trong bóng đêm hắc ám của một xã hội rẻ rúng tài năng.
- Kết bài:
Đã hơn hai trăm năm trôi qua, bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du vẫn vẫn còn lưu giữ một tấm lòng với con người sâu sắc và chân thành. Đó là tình cảm không biên giới, vượt thời gian, xuất phát từ gốc rễ “thương người như thể thương thân” của dân tộc. Không phải đợi đến ba trăm năm sau, ánh sáng của thời đại mới đã làm sáng mãi tên tuổi của Nguyễn Du trong lòng dân tộc, tên tuổi Tố Như đã làm vinh danh dân tộc Việt Nam. Cuộc sống đã đổi thay, nhiều niềm vui của dân tộc đang nhân lên trước cánh cửa vào thế kỷ XXI, thế nhưng chúng ta vẫn trân trọng và cảm thông nỗi buồn của Nguyễn Du – nỗi buồn thời đại quá khứ. Thời đại mới giải tỏa cho những bế tắc của Nguyễn Du và thời đại của ông, tiếp thu tinh thần nhân bản dân tộc ấy:
Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)
Tham khảo:
Năm 16 tuổi, Tiểu Thanh phải làm vợ lẽ. Chồng cô, một công tử quyền quý nhưng ngốc nghếch, chẳng phải kẻ hào hoa phong nhã gì. Cô lại còn bị người vợ cả hay ghen hành hạ, bắt phải sống riêng trên núi Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Cô buồn khổ, uất ức, tấm lòng gửi cả vào thơ, rồi sinh bệnh và chết ở tuổi 18. Người vợ cả kia không chỉ hành hạ Tiểu Thanh cho đến chết mả còn đốt những bức tranh chân dung nàng, đốt cả những bài thơ của nàng, may mắn còn sót lại một số bài thơ. Người ta cho khắc in số thơ đó, đặt tên là phần dư. Trân trọng nhan sắc, quý mến tài năng của Tiểu Thanh bao nhiêu, Nguyễn Du càng cảm thông, thương xót cho số phận của nàng bấy nhiêu. Đó chính là nguồn cảm hứng để đại thi hào một lần nữa cất lên tiếng thơ vang động lòng người.
Đó cũng chính là tiếng nói tri âm của Nguyễn Du giành cho cuộc đời bạc mệnh ấy. Sự thấu hiểu và đồng cảm với Tiểu Thanh không chỉ đến từ “con mắt”, “tấm lòng” mà còn đến từ những trải nghiệm của cuộc đời mịt mù gió bụi mà Nguyễn Du đã nếm trải suốt bao năm. Cuộc đời gặp cuộc đời, tấm lòng gặp tấm lòng, tuy số phận có khác nhau, tuy cách xa không gian, thời gian, thời đại, song không ngăn được sự tri âm của một bậc đại quan đối với một nữ nhi thường tình.
Sự gặp gỡ của Nguyễn Du với Tiểu Thanh được thể hiện ngay trong nhan đề bài thơ: Chữ “Độc” được dịch là đọc, “Kí” là một thể văn dùng để ghi chép. Vậy có thể hiểu “Độc Tiểu Thanh kí” là đọc những ghi chép về Tiểu Thanh hoặc đọc những ghi chép của Tiểu Thanh. Dù hiểu theo cách nào thì ta cũng nhận thấy rằng tác giả bài thơ đã có những hiểu biết về đối tượng cảm thương của mình. Từ hiểu biết để rồi thêm lần nữa đau đớn, xót xa, tiếc nuối cho số phận bất hạnh của người phụ nữ, cho những giá trị tinh thần cao đẹp của con người bị vùi dập.
Hai câu thơ mở đầu đã cho thấy thi nhân và Tiểu Thanh đều lẻ loi, cô độc:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Vườn hoa bên Tây Hồ đã thành bãi hoang rồi,
Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ.)
Nếu chữ “độc” trong nhan đề bài thơ được hiểu là “đọc” thì ở câu thơ thứ hai được hiểu là “một mình”. Hai chữ “độc điếu” mà bản dịch thơ chưa chuyển tải hết ý một mình, cô độc đã cho ta thấy tâm thế của Nguyễn Du khi tiếp cận cuộc đời Tiểu Thanh. Cuộc đời của người con gái tài sắc bất hạnh ấy cũng chỉ được tái hiện qua “nhất chỉ thư”, qua những gì còn sót lại ít ỏi để người đời sau có thể hiểu. Vậy là cả người viếng và người được viếng đều cô đơn. Nghĩ về Tiểu Thanh, Nguyễn Du nhớ ngay tới Tây Hồ- nơi nàng đã sống từ khi lấy chồng, nơi đã gắn bó với Tiểu Thanh, cũng là nơi đã chôn vùi cuộc đời và nghệ thuật của nàng. Chữ “uyển” trong “hoa uyển” thường chỉ khu đất rộng, cảnh trí đẹp, dành làm nơi cho vua chúa ngoạn du, hoa nghĩa bóng là đẹp. Vậy là nhắc tới Tây Hồ là nhắc tới cái Đẹp, cái đẹp của không gian, cảnh sắc, cái đẹp của con người. Nhưng tất cả giờ chỉ còn là bãi hoang. Chữ tẫn trong câu thơ chủ yếu là thanh bằng như kéo nặng câu thơ, với nét nghĩa là hết thảy, triệt để, đã cho thấy sức tàn phá, hủy diệt cái Đẹp của cuộc đời, qua thời gian. Trong câu thơ có giọng xót xa, tiếc nuối của nhà thơ trước cảnh đẹp Tây Hồ; mà thực chất là xót xa, nuối tiếc cho người con gái tài sắc mà mệnh bạc; xót xa cho cái Đẹp bị vùi dập, bị hủy hoại. Mạch cảm xúc thương xót ấy được tiếp nối trong hai câu thơ thực:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
(Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết
Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở.)
Chi phấn (son phấn) là hình ảnh chỉ người phụ nữ có nhan sắc, ở đây là Tiểu Thanh. Thần là hồn, là cái tinh anh còn lại sau sự mất đi của thể xác. Vậy là Tiểu Thanh có linh thiêng chắc hải xót xa vì những việc sau khi chết, vì chết rồi mà nàng vẫn không được yên. Nếu son phấn gợi sắc đẹp thì văn chương chỉ tài hoa, trí tuệ của nàng. Con người nàng đã sinh ra là phận đàn bà ắt phải chấp nhận số hồng nhan, cớ sao văn chương, thơ ca không có số mệnh, chẳng có tội tình mà cũng bị làm cho tan tành. Thảo nào mà không còn trên cõi đời này nữa nhưng Tiểu Thanh vẫn chưa được giải thoát, vẫn còn phải thổn thức cả sau khi chết. Sự thổn thức ấy phải chăng là của chính Nguyễn Du đang ai điếu cho một cuộc đời bi đát. Đó cũng chính là tiếng nói bất bình đối với một xã hội mà ở đó vẻ đẹp, tài năng của con người không được trân trọng và bảo vệ.
Có thể thấy xót xa, đau đớn cho cuộc đời của những người phụ nữ có thân phận thấp, có tài năng và sắc đẹp, song bất hạnh là mạch cảm hứng lớn xuyên suốt đời thơ Nguyễn Du. Thương cảm bao nhiêu, thi nhân lại càng băn khoăn, day dứt bấy nhiêu khi đáng lẽ ra những người phụ nữ như thế phải được hạnh phúc. Vậy tại sao? Chất vấn, tự vấn nhiều để rồi tác giả phải chua chát thốt lên: “Đau đớn thay phận đàn bà. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” (Truyện Kiều), “Đau đớn thay phận đàn bà. Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu” (Văn chiêu hồn). Một lần nữa khi đứng trước cuộc đời Tiểu Thanh, Nguyễn Du không ngăn nổi mình trước câu hỏi ấy:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được
Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã)
Hận là một trong những trạng thái cảm xúc đỉnh điểm trong cung đàn tình cảm, suy nghĩ của con người, khi điều gì đó không thể giải tỏa. Ai hận? Hận ai? Mối hận ấy không chỉ ở đây, trong tình huống này mà là từ xưa đến nay, của người xưa và của người nay. Người xưa có thể là Tiểu thanh và những người như nàng. Người nay có thể là những “hồng nhan bạc mệnh” cùng thời với Nguyễn Du. Hận xã hội phong kiến. Hận những qui luật nghiệt ngã. Hận hai chữ “tài mệnh tương đố”. Hận những nghịch lý mà chẳng thể thoát ra. Chỉ có hỏi trời để mong tìm đáp án cho lời chung ấy, bởi Trời là thượng đế, là đấng tối cao, là nơi duy nhất con người thời ấy tìm đến để bấu víu mỗi khi chênh chao. Song lại không thể hỏi trời vì trời cũng không có lời giải đáp và ta đành bất lực. Thực tế nghiệt ngã ấy là một nỗi “kì oan” mà tất thảy những ai phong nhã đều phải nhận lấy, chấp nhận nếm trải trong suốt cuộc đời. Đến đây, thêm một lần nữa Nguyễn Du đã khái quát được một vấn đề nhân sinh lớn lao.
Tri âm với Tiểu Thanh, khóc thương cho nàng, cũng là khóc thương cho bao người chung số phận. Từ xúc cảm ấy, Nguyễn Du ý thức sâu sắc về giá trị của cái tài, cái Đẹp, về văn chương, về bao lớp người nghệ sĩ như ông. Có lẽ từ mối đồng cảm ấy và từ nhận thức sâu sắc ấy mà Nguyễn Du tự coi mình như người cùng hội cùng thuyền với những người như Tiếu Thanh (ngã tự cư). Nỗi oan lạ lùng của Tiểu Thanh cũng là nỗi oan của ta. Ý thơ ấy toát lên sự đồng cảm, sự tri âm sâu sắc của đại thi hào đối với người con gái ấy. Vậy là từ thương người, thương đời rối thương chính mình, ý thơ đột ngột mà tự nhiên chuyển từ đối tượng cảm thương sang chính bản thân người cảm thương. Nguyễn Du tự thấy cuộc đời mình, số phận mình cũng có những nét bất hạnh như Tiểu Thanh. Và phải chăng tác giả còn muốn gửi gắm một điều phổ quát hơn thế, đó là thân phận bạc bẽo của lớp người tài hoa như ông trong xã hội phong kiến nhiễu nhương.
Vậy là sống cách Nguyễn Du hàng trăm năm, xa Nguyễn Du vạn dặm, song Tiểu Thanh, người con gái có quãng đời tuổi trẻ sống lẻ loi nơi Cô Sơn, đã tìm được tiếng nói tri âm của mình. Còn Nguyễn Du, giữa cuộc đời này, có tìm được tri âm cho mình?. Bài thơ là một tiếng khóc cho người, rồi khóc cho chính mình, khi thi nhân cảm thấy đời mình không chỉ long đong, lận đận mà còn đơn độc, nên cứ mãi băn khoăn:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
(Không biết hơn ba trăm năm sau
Thiên hạ ai người khóc Tố Như?)
Hôm nay, mình khóc cho Tiểu Thanh, ngày mai, liệu có ai khóc cho mình? Câu hỏi ấy thể hiện sự cô đơn của nhà thơ trước cuộc đời. Đó cũng là khao khát kiếm tìm tri âm, là hi vọng người gửi cả vào hậu thế. Khao khát ấy thật bình dị, song rất nhân bản. Ba trăm năm có lẻ là con số ước lệ chỉ khoảng thời gian rất dài. Dù thời gian rất dài vẫn không thể chôn vùi hi vọng ấy. Thời gian đã có câu trả lời, chẳng phải đợi đến ba trăm năm đã có biết bao người khóc thương cho đại thi hào dân tộc, có biết bao người đã trân trọng những di sản mà thi nhân để lại. Kính gửi cụ Nguyễn Du của nhà thơ Tố Hữu là một trong những minh chứng cụ thể cho điều đó.
Độc Tiểu Thanh kí là một bài thơ thuộc thể tài tiếng nói tri âm. Vượt ra khỏi mối đồng cảm của một cá nhân với một cá nhân, bài thơ đã đặt ra nhiều vấn đề có tính phổ quát, chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc. Phải chăng tất cả những điều ấy đã tạo nên sức sống cho một bài thơ ngắn gọn, chạm đến trái tim của bao lớp người.
- Phân tích ý nghĩa bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du
- Cảm hứng nhân đạo trong “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du