»» Nội dung bài viết:
Cảm nhận nhân vật ông Giáo trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao.
Nam Cao (1917 – 1951) là nhà văn hiện thực lớn, một nhà báo kháng chiến, một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ 20. Tác phẩm “Lão Hạc” là truyện ngắn nổi tiếng viết theo chủ nghĩa hiện thực tiêu biểu của nhà văn Nam Cao được viết vào năm 1943. Nhân vật ông Giáo trong tác phẩm tuy không phải là nhân vật chính nhưng lại vô cùng quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng của tác giả.
1. Ông Giáo là một tri thức nghèo ở nông thôn, có hoàn cảnh khó khăn.
– Nếu như với một người nông dân như lão Hạc, sự nghèo đói khiến lão phải bán đi con chó – người bạn thân nhất của lão, thì với một trí thức như ông Giáo, thứ ông quý trọng nhất, nâng niu nhất nhưng cuối cùng ông vẫn phải bán chúng đi để chữa bệnh cho con – đó là sách.
– Cuộc sống khó khăn của ông Giáo còn được thể hiện qua hình ảnh người vợ của ông. Sự nghèo đói, khổ cực đã khiến thị trở nên ích kỉ với tất cả mọi người, ngoại trừ những đứa con của thị.
→ Cuộc sống khó khăn bao trùm lên ngôi làng nhỏ, dù là một người trí thức cũng không thể thoát khỏi vòng vây của cái đói, cái khổ.
2. Ông Giáo là một người giàu tình cảm, giàu lòng yêu thương.
– Ông Giáo khác vợ ông ở chỗ, dù nghèo đói, túng quẫn, nhưng ông vẫn giữ được cái phẩm chất, cái lòng thương người, đồng cảm của mình, đặc biệt là với ông bạn già – lão Hạc.
– Từ khi con trai lão Hạc ra đi, ngoài cậu Vàng thì có lẽ, ông Giáo chính là người thấu hiểu và đồng cảm với lão nhất, ông luôn lắng nghe mọi tâm sự của lão Hạc, từ việc con trai không có tiền cưới vợ phải bỏ đi đồn điền, đến việc lão muốn bán chó, muốn gửi vườn, gửi tiền,…
– Ông Giáo luôn muốn giúp đỡ lão Hạc, dù chỉ là củ khoai, chén rượu, khi lão Hạc từ chối sự giúp đỡ của ông, ông Giáo vừa buồn vừa thông cảm. Sự giúp đỡ duy nhất của ông dành cho lão, có lẽ là giữ vườn và tiền làm ma hộ lão.
– Không chỉ với lão Hạc, ông Giáo cũng hiểu và thông cảm cho sự ích kỉ của người vợ: “Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi”
3. Ông Giáo là một trí thức vừa đáng thương vừa đáng quý.
– Tưởng như trong câu chuyện này, lão Hạc đã là người khổ nhất, đáng thương nhất, nhưng nếu như nhìn lại tất cả, có lẽ ông Giáo mới là người đáng thương nhất.
+ Ông Giáo là nhân vật đại diện cho tầng lớp trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ.
+ Sự bế tắc ấy được thể hiện ở chỗ ông chính là người chứng kiến mọi đau khổ của lão Hạc, con lão, của vợ ông, và có lẽ của rất nhiều người khác, những ông chỉ có thể đứng nhìn mà không thể cứu giúp họ khỏi cái khổ đau ấy.
+ Ông Giáo không chỉ gánh trên vai sự thiếu thốn về vật chất mà còn gánh cả nỗi đau về tinh thần, đó là sự dày vò, day dứt khi không thể làm gì cho xã hội, cho đất nước, như chính trách nhiệm của một nhà nho, nhà trí thức đương thời.
+ Khi vợ ông ích kỉ với lão Hạc, ông chỉ “buồn chứ không nỡ giận”, khi nghe Binh Tư nói lão Hạc muốn đánh bả chó, ông chỉ biết thốt lên “Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Và cho đến khi chứng kiến cái chết của lão Hạc, điều duy nhất ông có thể làm đó là giữ trọn lời hứa với lão.
→ Tình cảnh bế tắc và tấm lòng nhân đạo của ông Giáo khiến người đọc thấy đâu đó trong con người ông là nỗi lòng, tâm sự của chính tác giả – nhà văn Nam Cao.
Ông Giáo là người giàu lòng trắc ẩn, yêu thương, đại diện cho tầng lớp trí thức đương thời. Lấp ló đằng sau nhân vật ông giáo ấy chính là hình ảnh tác giả với tấm lòng nhân đạo cao cả và nỗi lòng bế tắc trước cảnh ngộ của những người dân lao động.
Cùng với ông Giáo Thứ trong “Sống mòn”, Điển trong “Trăng sáng”, nhân vật “tôi” trong “Mua nhà”, hình ảnh ông Giáo trong truyện “Lão Hạc” đã kết tinh cái tâm và cái tài của Nam Cao trong nghệ thuật xây dựng nhân vật – nhà văn nghèo, ông Giáo khổ trường tư – trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là những con người nghèo mà trong sạch, hăm hở và nhiệt tâm từng ôm ấp bao mộng đẹp, sống nhân hậu, vị tha.
Trong truyện “Lão Hạc”, ông Giáo vừa là nhân vật, vừa là người dẫn chuyện. Không phải là nhân vật trung tâm, nhưng sự hiện diện của ông Giáo đã làm cho “bức tranh quê” ngày xa xưa ấy thêm sáng tỏ. Nhân vật ông Giáo là chiếc gương soi sáng cuộc đời và tâm hồn lão Hạc, đã góp phần tô đậm giá trị nhân đạo của truyện ngắn đặc sắc này.
Bài văn tham khảo 1:
- Mở bài:
Lão Hạc là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Nam Cao. Lấy bối cảnh cuộc sống cùng khổ và đau thương của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám, Nam Cao bày tỏ niềm cảm thông sau sắc đối với những con người bất hạnh trong cuộc đời. Bên cạnh nhân vật lão Hạc nhân vật ông Giáo đã để lại bao ấn tượng đối với mỗi chúng ta về người trí thức nghèo trong xã hội cũ.
- Thân bài:
Không rõ ông Giáo họ tên là gì. Hai tiếng “ông Giáo” đã khẳng định vị thế của một con người giữa làng quê trước năm 1945 “nhiều chữ nghĩa, nhiều lí luận, người ta kiêng nể”. Hai tiếng “ông Giáo” từ miệng lão Hạc nói ra, lúc nào cũng đượm vẻ thân tình, cung kính, trọng vọng: “cậu vàng đi đời rồi ông Giáo ạ !…”. “Vâng, ông Giáo dạy phải ! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng”… “Tôi cắn rơm, cắn cổ lạy ông Giáo”….
Hãy đi ngược thời gian, tìm về thời trai trẻ của ông Giáo. Là một con người chăm chỉ, ham mê, sống vì một lý tưởng đẹp, với bao mộng tưởng. Ông đã từng lặn lội vào tận Sài Gòn, “hòn ngọc Viễn Đông” thời ấy để làm ăn, để học tập, để gây dựng sự nghiệp. Cái va li “đựng toàn những sách” được người thanh niên ấy rất nâng niu”, cái kỉ niệm “đầy những say mê đẹp và cao vọng” ấy, hơn sáu chục năm còn làm cho ta xúc động và quý trọng một nhân cách đẹp.
Con người “nhiều chữ nghĩa” ấy lại nghèo. Sau một trận ốm nặng ở Sài Gòn, quần áo bán gần hết, về quê chỉ có một va li sách. Nếu lão Hạc quý cậu Vàng bao nhiêu thì ông Giáo lại quý những quyển sách của mình bấy nhiêu. Bởi lẽ những quyển sách ấy đã làm bứng lên trong lòng ông « như một rạng đông” thời trai trẻ, làm cho cuộc đời thêm sắc màu ý vị, sống say mê, “trong trẻo, biết yêu và biết ghét”.
Cái nghèo vẫn đeo đẳng ông Giáo mãi, “ông Giáo khổ trường tư”. Vận hạn xảy ra luôn như ông nghĩ: “Đời người ta không chỉ khổ một lần”. Sách cứ bán dần đi. Chỉ còn giữ lại 5 quyển sách với lời nguyền: “dù có phải chết cũng không bán”. Như một kẻ cùng đường phải bán máu. Đứa con thơ bị chứng kiết lị gần kiệt sức, ông Giáo đã phải bán nốt đi 5 cuốn sách cuối cùng, cái gia tài quý giá nhất của người trí thức nghèo. “Lão Hạc ơi ! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?” Lời than ấy cất lên nghe thật não nuột, đã thể hiện một nhân cách đẹp trước sự khốn cùng: biết sống, và dám hi sinh vì cuộc sống !
Ông Giáo là một trí thức có trái tim nhân hậu rất đáng quý. Ông là chỗ dựa tinh thần, là niềm an ủi, tin cậy của lão Hạc. Ông Giáo là nơi để lão Hạc san sẻ bao nỗi đau, nỗi buồn. Nhờ đọc hộ một lá thư, nhờ viết hộ một lá thư cho đứa con trai đi phu đồn điền. Tâm sự về mảnh vườn và và chuyện đứa con trai “phẫn chí” không lấy được vợ. San sẻ về nỗi đau buồn sau khi bán cậu Vàng cho thằng Mục, thằng Xiên… Có lúc là một điếu thuốc lào, một bát nước chè xanh, một củ khoai lang “lúc tắt lửa tối đèn có nhau”. Ông Giáo đã đồng cảm, đã thương xót, đã san sẻ với lão Hạc với tất cả tình người.
Ông Giáo đã thương lão Hạc “như thể thương thân”. Không chỉ an ủi, động viên, mà ông còn tìm mọi cách để “ngấm ngầm giúp” khi biết lão Hạc đã nhiều ngày ăn khoai, ăn rau, ăn củ ráy… trong lúc đàn con của ông Giáo cũng đang đói; cái nghĩa cử “lá lành đùm lá rách” ấy mới thật cao đẹp biết bao!
Ông Giáo nghèo mà đức độ lắm. Trước khi ăn bả chó, lão Hạc đã gửi ông Giáo 30 đồng để phòng khi chết “gọi là của lão có tí chút.. “, gửi lại ông Giáo ba sào vườn cho đứa con trai. Tình tiết ấy nói lên lão Hạc rất tin ông Giáo. Ông Giáo là người để lão Hạc “chọn mặt gửi vàng”. Giữa cái xã hội đen bạc thời ấy, một bà cô dành cho đứa cháu nội một bát nước cháo đã vữa ra như một sự bố thí (Những ngày thơ ấu), vợ tên địa chủ bắt bí, bóp nặn người đàn bà khốn cùng để mua rẻ đứa con gái lên bảy tuổi và ổ chó (Tắt đèn), một tên phụ mẫu ăn bẩn đồng hào đôi của chị nhà quê (Đồng hào có ma)… ta mới thấy niềm tin, sự kính trọng của kẻ khốn cùng đối với ông Giáo thật là thánh thiện.
Trước cái chết dữ dội của Lão Hạc, cái chết “đau đớn và bất lình lình”, chỉ có ông Giáo và Binh Tư hiểu… Ông Giáo khẽ cất lời than trước vong linh người láng giềng hiền lành tội nghiệp. Trong giọt lệ là những lời hứa của một nhân cách cao đẹp, đáng trọng: “Lão Hạc ơi ! Lão Hạc ơi ! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào… “
Cùng chung với ông Giáo Thứ trong “Sống mòn”, Điền trong “Trăng sáng”, nhân vật “tôi” trong “mua nhà”, hình ảnh ông Giáo trong truyện “Lão Hạc” đã kết tinh cái tâm và cái tài của Nam Cao trong nghệ thuật xây dựng nân vật – nhà văn nghèo, ông Giáo khổ trường tư – trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là những con người nghèo mà trong sạch, hăm hở và nhiệt tâm từng ôm ấp bao mộng đẹp, sống nhân hậu, vị tha. Có người đã cho rằng, ông Giáo là một nhân vật tự truyện, mang dáng dấp hình bóng Nam Cao. Ý kiến ấy rất lí thú.
- Kết bài:
Trong truyện “Lão Hạc“, ông Giáo vừa là nhân vật, vừa là người dẫn chuyện. Không phải là nhân vật trung tâm, nhưng sự hiện diện của ông Giáo đã làm cho “bức tranh quê” ngày xa xưa ấy thêm sáng tỏ. Nhân vật ông Giáo là chiếc gương soi sáng cuộc đời và tâm hồn lão Hạc, đã tô đậm giá trị nhân đạo của truyện ngắn đặc sắc này.
Bài văn tham khảo 2:
- Mở bài:
Đọc truyện ngắn “Lão Hạc” của cây bút hiện thực xuất sắc Nam Cao, nhân gian nhớ mãi hình tượng ông Giáo nghèo mà nhân hậu, chan chứa yêu thương, luôn đau đáu cho những số kiếp nhân sinh. Thấp thoáng sau nhân vật là hình bóng nhà văn Nam Cao với trái tim nặng trĩu tình người, tình đời.
Ông Giáo là một tri thức nghèo, có hoàn cảnh khó khăn.
Hầu hết nhân vật người trí thức trong các văn phẩm của Nam Cao trước cách mạng đều chung một cảnh nghèo. Hộ trong “Đời thừa”, Điền trong “Giăng sáng” hay những Thứ, San trong “Sống mòn” đều lắt lay với cuộc sống nghèo, gánh nặng áo cơm ghì sát đất.
Ông Giáo trong truyện “Lão Hạc” không phải là trường hợp ngoại lệ. Hăm hở, lặn lội vào tận Sài Gòn những mong theo đuổi “say mê và cao vọng”, sau một trận ốm, quần áo bán gần hết, ông Giáo bị ném về làng quê đeo đẳng cái nghèo. Những quyển sách ông Giáo rất mực nâng niu “nguyện giữ chúng suốt đời” cũng đành phải bán “Mỗi lần cùng đường đất sinh nhai”. Sau cùng chỉ còn năm quyển quý nhất, định bụng “dù có phải chết cũng không chịu bán”, thế mà một bận con ốm, ông Giáo cũng phải bán nốt. Ngẫm vừa xót, vừa thương cho cái số nghèo của ông Giáo nhà quê.
Vì nghèo, ông giáo bán đi “đứa con tinh thần” là những cuốn sách quý, tội nghiệp hơn, cũng bởi cái khổ, cái nghèo mà người vợ đáng thương của ông trở nên ích kỉ, hẹp hòi. “Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Chính con mình cũng đói…”. Câu nói của người đàn bà tội nghiệp ấy sao nghe nhoi nhói trong lòng. Ngỡ vô tình mà rất đáng cảm thương. Chỉ bởi nghèo quá mà thị thành ra như vậy. Chính ông Giáo cũng thấu tỏ, cảm thông: “Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất. Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận”. Dường như, ẩn sau cái nghèo của ông Giáo là bi kịch của người trí thức trong xã hội cũ. Gánh nặng mưu sinh lấy đi ước mơ, hoài bão con người, thật chua xót, tội nghiệp.
Lần dở trang truyện của Nam Cao, người đời không khỏi thương cảm, xót xa. Cuộc sống khó khăn đang bủa vây nơi làng quê bé nhỏ. Sự nghèo đói đâu chỉ hiển hiện với những người nông dân mà còn đè xuống cả những người trí thức “nhiều chữ nghĩa, nhiều lý luận, người ta kiêng nể” như ông Giáo. Ngòi bút Nam Cao có cả thương người và hơn hết là nỗi thương mình.
Ông Giáo là một người giàu tình cảm, giàu lòng yêu thương.
Đọc truyện “Lão Hạc”, nhân gian nhói đau cho một người cha khổ, tuổi già quay quắt, một mình chịu đói, chịu chết trong vật vã, đớn đau bao nhiêu thì lại cảm phục tấm lòng đôn hậu yêu thương của ông Giáo nghèo bấy nhiêu.
Kể từ ngày cậu con trai phẫn chí bỏ đi làm đồn điền, ngoài cậu Vàng, ông Giáo trở thành nơi trao gửi tâm tư của ông lão đáng thương. Vợ mất, con trai đi biệt xứ, ông Giáo là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho lão Hạc, nơi lão sẻ chia những nỗi buồn giữa ngày tháng cô đơn. Những bức thư con lão gửi về, ông Giáo là người đọc giúp lão vơi bớt nỗi nhớ con. Khi bán cậu Vàng, lão day dứt, đau đớn ông Giáo thấu hiểu, an ủi động viên. Khác với người vợ, dù nghèo khổ, túng quẫn ông Giáo vẫn vẹn nguyên cái phẩm chất, lòng thương người. Tấm lòng ấy in đậm trong việc làm và ý định đậm chất nhà quê. “Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo: Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: Bây giờ cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm nước chè tươi thật đặc; ông con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào… Thế là sướng”. Thảo thơm một tấm ân tình của ông Giáo nghèo với người bạn già tội nghiệp. Củ khoai, điếu thuốc quê mà sâu đậm yêu thương, mang hương vị tình người. Chỉ tiếc, lão Hạc khước từ tất cả tấm chân tình, ông Giáo vừa buồn lại vừa thương. Buồn vì thiện tâm bị từ chối bởi sĩ diện của người nghèo “dễ tủi thân hay chạnh lòng”, thương lão già “có tiền mà chịu khổ” không muốn lụy phiền.
Tấm lòng nhân từ của ông Giáo nghèo với lão già tội nghiệp đâu chỉ dừng lại ở sự đồng cảm, thấu hiểu, sẻ chia. Giữa bóng tối cuộc đời cùng quẫn, bất công, ông Giáo vừa là điểm tựa tinh thần, vừa trở thành điểm tựa pháp lí cho lão Hạc trao gửi những điều thiêng liêng. Ba sào vườn giữ lại cho con, ba mươi đồng bạc lo hậu sự sau khi lão già yếu. Hai việc hệ trọng phần ông Giáo gánh vác. Vậy là, hàng xóm láng giềng mà nghĩa nặng tình sâu. Sau cái chết vật vã, dữ dội của lão Hạc, trong giọt lệ là lời hứa của một nhân cách cao đẹp: “Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt ! Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào…”. Giữa cái khổ, cái nghèo ánh sáng tâm hồn nhân hậu, chan chứa yêu thương của ông Giáo thật đáng quý, đáng trọng vô cùng.
Ông Giáo là một trí thức vừa đáng thương vừa đáng quý.
Đọc truyện, người ta nghĩ rằng lão Hạc đích thực là kẻ đáng thương nhất, côi cút, chết đau, chết khổ. Nhưng ngẫm cho kĩ, ông Giáo cũng đâu có hơn gì, thậm chí đáng thương không kém. Người trí thức “nhiều chữ nghĩa, nhiều lý luận” mà mòn mỏi, bế tắc mang nỗi đau khổ, dày vò về tinh thần. Thương người mà chẳng thể cứu giúp người. Nhà vẫn nghèo, vợ con vẫn khổ, ông lão hàng xóm phải chết vật vã đớn đau. Với ông Giáo “cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Những biết sao được giữa thói đời cùng quẫn. Ông Giáo đáng thương mà cũng đáng quý vô cùng. Trăn trở, đau đáu cho số kiếp nhân sinh. Sống cùng những con người khổ, ông Giáo vẫn thấy được ở họ ánh sáng thiên lương. Với lão Hạc là người cha thăm thẳm tình thương con, với bà vợ vì khổ mà hẹp hòi chỉ “buồn mà không nỡ giận”.
- Kết bài:
Trong truyện “Lão Hạc”, ông Giáo là một nhân vật giữ vai trò đặc biệt là người kể chuyện, bày tỏ những trăn trở suy tư của nhà văn về cuộc sống, con người. Ông Giáo nghèo vừa đáng kính vừa đáng thương mang hình bóng nhà văn Nam Cao với tấm lòng đôn hậu chan chứa yêu thương. Hình tượng ông Giáo nghèo mà đôn hậu nhân từ trong trang văn Nam Cao chắc hẳn sẽ lưu giữ mãi trong những trái tim, những cuộc đời.