cam-nhan-ve-hinh-tuong-nguoi-linh-lai-xe-trong-bai-tho-ve-tieu-doi-xe-khong-kinh-cua-pham-tien-duat-5678

Cảm nhận về hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật

Cảm nhận về hình tượng người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.

  • Mở bài:

Với quan niệm “chủ yếu đi tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống”, Phạm Tiến Duật đưa tất cả những chất liệu hiện thực của cuộc sống chiến trường vào trong thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm đặc sắc và tiêu biểu nhất cho phong cách thơ của ông. Nổi bậc trong bài thơ hình tượng người lính lái xe được khắc họa hết sức độc đáo, mang đậm phong cách thơ hóm hỉnh, tinh nghich của phạm Tiến Duật.

  • Thân bài:

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” rút từ tập thơ Vầng trăng – Quầng lửa của tác giả. Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính, qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ờ Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, thái độ bất chấp khó khăn coi thường gian khổ hiểm nguy, niềm lạc quan sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, trái tim yêu nước nồng nhiệt của tuổi trẻ thời chống Mỹ.

Nhan đề “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” có vẻ dài dòng và thừa từ nhưng chính cái nhan đề ấy lại thu hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của nó. Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật rõ hình ảnh của toàn bài: những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một sự phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu của nhà thơ về hiện thực đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn. Hai chữ “bài thơ” nói lên cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam dũng cảm, hiên ngang, vượt lên những thiếu thốn, gian khổ,khắc nghiệt của chiến tranh.

Chính hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình tượng người lính lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn.

1. Vẻ đẹp tư thế hiên ngang, sự ung dung, bình tĩnh giữa chiến trường hiểm nguy:

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”

Những câu thơ tả thực, chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, xe lại chạy nhanh nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiếm: nào là “gió vào xoa mắt đắng”, nào là ”con đường chạy thẳng vào tim”, rồi ”sao trời”, rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ “như sa, như ùa” – rơi rụng, va đập, quăng ném…. vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Dường như chính nhà thơ cùng đang cầm lái, hay ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động và cụ thể, đầy ẩn tượng, gợi cảm giác chân thực đến thế.

Cảm giác, ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ không run sợ, hoảng hốt. Trái lại, tư thế các anh vẫn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng:

Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”

Đảo ngữ “ung dung” với điệp từ “nhìn” cho ta thấy cái tư thế ung dung, thong thả, khoan thai, bình tĩnh, tự tin của người làm chủ, chiến thắng hoàn cảnh. Bầu không khí căng thẳng với “Bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của một con người luôn coi thường hiểm nguy.

Nhịp thơ 2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trờ nên chậm rãi, như diễn tả thái độ thản nhiên đàng hoàng. Chi có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tu thế như vậy.

Thiên nhiên, vạn vật dường như cũng bay theo ra chiến trường. Tất cả điều này đã giúp người đọc cảm nhận được ở các anh nét hào hoa, kiêu bạc, lãng mạn và yêu đời của những người trẻ tuổi. Tất cả là hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ đã trở thành những hình ảnh lãng mạn.

2. Thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ, tỉnh thần lạc quan hồn nhiên của người lính trẻ:

“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”

Nếu như hai khổ trên là những cảm giác về những khó khăn thử thách dù sao cũng vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn xoi xả ”. Trên con đường chi viện cho miền Nam ruột thịt, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ.

Đối mặt với thử thách, người chiến sĩ vẫn không hề nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. “Mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khấc nghiệt, dữ đội nhưng đối với họ tất cả chỉ “chuyện nhỏ”. Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp nhận khó khăn đầy chù động, một thái độ cứng cỏi.

Trước mọi khó khăn, nguy hiểm, các anh vẫn “cười” rồi chẳng cần bận tâm, lo lắng, các anh sẵn sàng chấp nhận thử thách, gian lao như thể đó là điều tất yếu. Các anh lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, của thái độ hiên ngang để thắng lại cái vạn biến của chiến trường sinh tử gian khổ, ác liệt. Đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, niêm vui sôi nổi, yêu đời.

3. Vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội thắm thiết:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”

Sau mỗi trận mưa bom bão đạn cùng với những chiếc xe bị tàn phá nặng nề hơn, họ lại gặp nhau trong nhưng phút dừng chân ngắn ngủi tạo thành một “tiếu đội xe không kinh ”. Khổ thơ làm bật lên tình cảm gắn bó, chia sẻ ngọt bùi của những chàng trai vui vẻ, sôi nổi, yêu đời. Cái bắt tay độc đáo là biểu hiện đẹp đẽ ấm lòng của tình đồng chí, đồng đội đầy mộc mạc nhưng thấm thìa: “bắt tay qua cửa kỉnh vờ rồi ”, cái bắt tay thay cho lời nói. Chi có những người lính, những chiếc xe thời chổng Mĩ mới có thể có những cái bắt tay ấy, một chi tiết nhỏ nhưng mang dâu ấn của cả một thời đại hào hùng.

Lúc nghỉ ngơi, các anh trò chuyện, ăn uống, như anh em ruột thịt: chung bát, chung đũa, mắc võng chông chênh… chỉ trong một thoáng chốc. Tình cảm gia đình người lính thật bình dị, ấm áp thân thương tạo nên sức mạnh, nâng bước chân người lính để rồi các anh lại tiếp tục hành quân: “Lại đi lại đi trời xanh thêm ”, đi đen thẳng lợi cuối cùng.Trong tâm hồn họ, trời như xanh thêm chứa chan hi vọng lạc quan dào dạt. Nhịp điệu câu thơ vừa sôi nổi, vừa nhịp nhàng cùng với điệp từ “lại đi” được lặp lại hai lần gợi tả nhịp sống chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh đạn bom nào có thể ngăn cản nổi.

Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu.Sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu).

4. Vẻ đẹp tình yêu nước nồng nàn, mãnh liệt:

“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Hai câu đâu lả hình ảnh những chiếc xe không còn nguyên vẹn về phương tiện kĩ thuật, “không kính, không mui, không đèn, thùng xe có xước…”. Vậy mà những chiếc xe đó lại như những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra tiền tuyến với một tình cảm thiêng liêng: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước. Chỉ cần trong xe có một trái tim “

Đoàn xe vẫn vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập thống nhất đất nước đang vẫy gọi. Bởi vì trong những chiếc xe đó lại nguyên vẹn một trái tim dũng cảm phi thường.

Hình ảnh trái tim là một hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra biết bao ý nghĩa. Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu. Trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng dùng cảm tuyệt vời của những người trai trẻ. Trái tim mang tinh thần lạc quan vả một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất Bắc Nam.

Nhà thơ đã tô đậm những cái “không” để làm nổi bật cái “có” làm nổi bật chân lí của thời đại: bom đạn, chiến tranh có the làm biến dạng những chiếc xe, huỷ hoại những giá trị vật chất nhưng không thể hủy diệt được những giá trị tinh thần cao đẹp… Giọng thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ, hào hùng, vẫn là cách nói thản nhiên ngang tàng của lính, nói nhiều “cái không” nhưng câu thơ lại nhấn mạnh “cái có”: một tinh thần trách nhiệm, một tinh thần yêu nước nồng nàn. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính không có đạn bom nào của kẻ thù có thể làm lay chuyển được.

Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành hiện thực,chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không hề thay đổi. Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có thể coi câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn tự, là con mắt thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống Mỹ.

Với hình ảnh gần gũi, ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, đậm chất khẩu ngữ kết hợp với giọng điệu tự nhiên, phóng khoáng, đa dạng, Phạm Tiến Duật đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ hiên ngang, dùng cảm, trẻ trung và những chiếc xe không kính ngộ nghĩnh giữa tuyến đường Trường Sơn lịch sử thời kì kháng chiên chống Mĩ.

  • Kết bài

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã góp phần hoàn thiện, hoàn mĩ bức tượng đài nghệ thuật bất tử về người lính Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cả bài thơ là lời nói, cảm xúc của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Thử thách ngày càng tăng, nhưng mức độ và hướng đi không thay đổi.Vẫn là khẳng định tinh thần bất khuất, quyết thắng của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến Duật đã đem lại nhiều hình ảnh mới và giọng điệu mới: trẻ trung, tinh nghịch, ngang tàn mà kiên định. Bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính,nó phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta,khẳng định rằng ý chí của con người mạnh hơn cả sắt thép. Bài thơ là một khúc tráng ca trong bản giao hưởng anh hùng về người lính trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước.


Bài tham khảo:

Vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật

  • Mở bài:

Có thể nói, trong các nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phạm Tiến Duật là nhà thơ có tâm hồn trẻ trung, tinh nghịch nhất. Ông sinh ở Phú Thọ, học trường đại học sư phạm Hà Nội nên sớm mang trong mình cái vẻ hào hoa sôi nổi và lạc quan của lớp thanh niên yêu nước. Bởi thế, thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái “tinh nghịch”, hồn nhiên nhưng cũng rất tinh tế, sâu sắc. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã khắc họa đậm nét hình tượng người lính lái xe, thể hiện rõ nét phong cách thơ ấy.

  • Thân bài:

Xuất thân là một nhà giáo, Phạm Tiến Duật đến với thơ hơi muôn so với các nhà thơ khác. Đóng góp lớn nhất của nhà thơ Phạm Tiến Duật đó là mảng thơ viết về người lính. Năm 1970, ông xuất hiện cùng với tập thơ Vầng trăng vầng lửa và lập tức gây chú ý với tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Lần đầu tiên trong văn học, người ta thấy một hình tượng người lính trẻ trung, yêu đời, lạc quan và giàu lòng yêu nước đến thế.

Với tập thơ này, ông được ca tụng là “con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại”, “cây săng lẻ của rừng già”, “nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ”. Thơ ông thời chống Mỹ từng được đánh giá là “có sức mạnh của một sư đoàn”. Đây quả thật là một đánh giá đầy ý nghĩa đối với một nhà thơ đã sống và chiến đấu hết mình vì sự nghiệp giải phóng đất nước.

Thực tế, Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969. Sau này bài thơ được tác giả đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” (1970). Với giọng thơ hóm hỉnh, vui tươi, bài thơ khắc họa đậm nét hình tượng những chiếc xe không kính và hình tượng người lính lái xe dũng cảm, kiên cường trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa.

Ấn tượng đầu tiên thú vị và sâu sắc nhất có lẽ là hình tượng những chiếc xe không kính. Bình thường, xe thì phải có kính. Kính để chắn bụi, chắn gió, chắn mưa tạt, gió lùa. Thế nhưng ở đây, những chiếc xe đã không còn kính nữa. Tác giả lí giải điều “bất thường” ấy một cách đơn giản đến bất ngờ:

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”.

Những chiếc xe không kính không thể gọi là cái đẹp. Nhưng tác giả đã lấy hình tượng đó làm cảm hứng xuyên suốt bài thơ. Cái nguyên nhân khiến cho xe không có kính đó chính là do bom đạn của kẻ thù. kẻ thù muốn ngăn chặn bánh xe lăn. Chúng tuôn xuống biết bao bom đạn để hòng tiêu diệt cuộc tiếp vận của quân dân miền Bắc. Tội ác ấy khắc sâu trên những chiếc xe, trên những quãng đường đầy hầm hố và mảnh vỡ.

Hình tượng độc đáo nhưng hợp lý này có tác dụng gây ấn tượng mạnh. Những chiếc xe không kính như chứng tích lịch sử tố cáo sự tàn bạo và man rợ của kẻ thù. Nó gợi lên những nguy hiểm cận kề người lính. Sự hi sinh, mất mát; hiểm nguy và cái chết đã ở đâu đó, rất gần rất gần. Đây cũng là cơ sở để làm nổi bật phẩm chất dũng cảm, sự lạc quan và quyết tâm giành chiến thắng của anh lính lái xe thời chống Mĩ.

Hình tượng những chiếc xe không kính cũng đã góp phần cụ thể hóa những khó khăn gian khổ mà anh bộ đội lái xe phải chịu đựng. Điệp ngữ “không có kính” ở đâu các khổ thơ vừa có tác dụng nhấn mạnh cho ta cảm nhận được gian khổ, nguy hiểm sự khốc liệt của hiện thực cuộc chiến đối với người lính Trường Sơn vừa khắc họa được nét tiêu biểu của con người Việt Nam: dù thiếu thốn, khó khăn vẫn kiên cường chiến đấu.

Bom đạn của kẻ thù đâu chỉ làm vỡ kính xe. Nó còn tàn phá chiếc xe một cách kinh khủng. Chiếc xe vẫn đêm đêm băng trên các nẻo đường dù “không có đèn”. Chiếc xe vẫn chuyên chở những chuyến hàng ra mặt trận dù “không có mui xe”. “Thùng xe có xước”, vết đạn còn nguyên nhưng không hề gì. Cụm từ “xe vẫn chạy” gây cho người đọc nhiều ấn tượng mạnh mẽ. Dù có bị tổn thương đến thế nào thì xe vẫn chạy tới, bất chấp tất cả.

Qua hình tượng chiếc xe không kính, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội. Đồng thời làm nổi bậc cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua. Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh. Song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mĩ.

Bên cạnh hình tượng chiếc xe, hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn cũng được khắc họa đậm nét. Họ vốn là nhưng chàng trai đô thành xung phong đi chiến đấu. Nhiệm vụ của họ là đưa những chuyến hàng từ bắc vào nam, kịp thời phục vụ cho cuộc kháng chiến cống Mỹ của cả dân tộc.

Những chàng trai mang trong mình lý tưởng yêu nước và lòng nhiệt huyết sôi sục. Họ bất chấp hiểm nguy, vượt qua khó khăn trở ngại để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Họ sẵn sàng hi sinh vì đất nước mà không hề hối tiếc. Bởi cuộc chiến đấu đối với họ đâu chỉ là thử thách lòng kiên trung. Cuộc chiến đấu đối với họ là một sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Sống và chiến đấu hết mình là trách nhiệm của mọi công dân trong thời kì chiến tranh cứu nước.

Mỗi bước đi mỗi bước hiểm nguy. Thế nhưng, người lính không hề run sợ. Họ vẫn vững tâm cho xe đi tới. Hình ảnh ấy được thể hiện ngay ở đầu bài thơ:

“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.

Họ vẫn ung dung ngồi trong buồng lái, linh hoạt điều khiển cho xe vượt qua những đoạn đường đầy hiểm nguy. Xe không có kính, dường như cả thiên nhiên vũ trụ hiện ra trước mắt họ. Họ nhìn mặt đất để xe khỏi lắc lư. Họ nhìn bầu trời để quan sát kẻ địch. Họ nhìn thẳng về phía trước như đang nhìn về miền Nam ruột thịt mà nhắc mình đi cho mau chóng.

Trong bom đạn, anh chiến sĩ vẫn giữ vững tư thế hiên ngang hướng về phía trước. Họ khắc cốt ghi khẩu hiệu: “tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Miền nam yêu thương trở thành động lực lớn lao giúp anh kiên cường vững tay lái.

Bởi xe không có kính che chắn nên chỗ người lái xe ngồi chẳng khác gì ngoài trời. Tất cả cứ xối, cứ ùa vào, gây nên biết bao khó khăn. Hết “gió vào xoa mắt đắng”, rồi thêm “bụi phun tóc trắng như người già”. Lại đến “mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”. Đó thực sự là những trở ngại lớn lao. Thậm chí có thể gây nguy hiểm cho người lính. Công việc căng thẳng mà còn đối mặt với những thay đổi bất thường. Điều ấy ấy dễ khiến người lính khó chịu. Thế mà, thật bất ngờ, người lính xem đó là chuyện thường. Họ còn thấy đẹp, thấy dễ chịu, thấy thật lãng mạng:

“Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.

Họ thấy thiên nhiên và cuộc sống đang ở rất gần. Thiên nhiên đang đồng hành cùng họ trên mỗi chặng đường. Họ thấy những trở ngại của thiên nhiên làm tăng thêm niềm vui của họ.

Lúc bụi bám đầy mặt, họ vẫn vui cười:

“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.

Lúc bị cơn mưa dội ướt, họ vẫn thản nhiên đi tới:

“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”.

Dường như có một sức mạnh siêu nhiên nào đó đang ngự trị ở trong họ. Hay là Phạm Tiến Duật đã nói quá lên ở điểm này. Những trở ngại ấy có thể làm cạn kiệt sinh lực của người lính chứ đâu phải chuyện đùa. Có lẽ, nhà thơ đã gạn lọc những điều ấy, để làm cho hình tượng người lính sáng ngời vẻ đẹp của lý tưởng, của tấm lòng kiên trung, quyết chiến quyết thắng kẻ thù.

Trên những quãng đường xe chạy, họ gặp những đồng đội của mình. Những người đồng đội vừa hoàn thành nhiệm vụ trở về. Họ vừa vượt qua cái chết để về đây và kể cho nhau nghe hành trình “phiêu lưu” ấy:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”.

Những chiếc xe của đồng đội anh cũng gánh chịu bom đạn của kẻ thù. Không chiếc nào được lành lặn. Và hầu như chiếc xe nào cũng “không có kính”. Bởi thế, họ có thể thoải mái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.

Những lần nghỉ ngơi là những lần tụ họp. Đối với người lính, những người đồng đội đều thân thiết, thâm tình, gắn bó. Dù họ ở nhiều miền quê, thuộc nhiều đơn vị khác nhau nhưng họ có cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng. Bởi thế, cuộc chung vui ngắn ngủi trên tuyến đường Trường Sơn không khác gì là cuộc hội vui của những người anh em, bạn hữu thân tình, khăng khít:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.

Rồi sau đó họ lại lên đường. Những chiếc xe lại lăn bánh. Cuộc chiến chưa kết thúc, đất nước chưa được giải phóng, họ cũng chưa thể nghỉ ngơi. Cụm từ “lại đi, lại đi” khẳng định mạnh mẽ ý chí kiên cường bất khuất của người lính. Nhịp thơ khỏe khoắn tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ý thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình yêu họ gửi lại cho cuộc đời.

Còn gì đẹp hơn khi tâm hồn họ đã dành cả cho dân tộc, cho đất nước. Họ chính là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Họ đích thực là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu).

Không chỉ khắc họa thành công hình tượng những chiếc xe không kính và người lính lái xe, bài thơ còn rất thành công trong nghệ thuật biểu hiện. Nghệ thuật tự sự hòa quyện trong bút pháp trữ tình tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ của bài thơ. Ngôn ngữ bình dị, âm điệu vui tươi, câu thơ khỏe khoắn thể hiện niềm lạc quan yêu đời của tuổi trẻ sống có lý tưởng.

Ngay cái tiêu đề cũng gây sự chú ý dối với người đọc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính vốn có nhiều từ dư thừa. Rõ ràng đây là một bài thơ, vậy mà tác giả lại ghi thêm hai chữ “Bài thơ”. Nhìn qua, cách ghi như thế có vẻ hơi thừa. Với lại, nói đến thơ là nói đến cái đẹp, cái rung cảm. Còn những chiếc xe không kính thì có gì đẹp đâu. Ấy vậy mà, cái tiêu đề ấy nó cứ thu hút, cứ làm cho ta thấy thú vị vô cùng.

Hai chữ “bài thơ” nói lên cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả. Không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Phạm Tiến Duật chủ yếu muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy. Đó là chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam dũng cảm, hiên ngang, vượt lên những thiếu thốn, gian khổ,khắc nghiệt của chiến tranh.

Đây rõ ràng là một dụng ý nghệ thuật của Phạm Tiến Duật. Dường như, tác giả đã tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất. Thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh.

  • Kết bài:

Viết về người lính Phạm Tiến Duật đã có những phát hiện đầy mới mẻ. Ông không những nhìn thấy được hiện thực khốc liệt mà còn nhìn thẳm sâu vào linh hồn con người. Ông phát hiện ra nguồn sức mạnh vĩnh cửu đang cuộn chảy trong con người. Ông nhìn thấy được sức mạnh của truyền thống nghìn năm hội tụ trong cuộc chiến này. Bởi thế, bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính,nó phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta, khẳng định rằng ý chí của con người mạnh hơn cả sắt thép.


Bài tham khảo:

  • Mở bài:

Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Xuất thân là một thầy giáo, do điều kiện lịch sử thúc bách, ông đem ngòi bút của mình phục vụ cho cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc. Phạm Tiến Duật chủ yếu viết về cuộc sống và chiến đấu của thanh niên xung phong trên tuyến đương Trường Sơn ác liệt. Thơ ông phóng khoáng, tinh nghịch, tràn đầy niềm lạc quan, tin tưởng. Phong cách ấy thể hiện sâu sắc qua “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” viết năm 1969, ngay khi cuộc chiến chống kẻ thù đang trong giai đoạn ác liệt nhất.

  • Thân bài:

Tuy đến muộn trong đề tài viết về người thanh niên xung phong, thế nhưng Phạm Tiến Duật cũng kịp để lại những dấu ấn đậm nét. Có thể nói ông là một trong những nhà thơ trẻ nổi bậc và có đóng góp nhiều nhất trong phong trào thơ ca kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tập thơ “Vầng trăng vầng lửa” ra đời năm 1970 làm tên tuổi Phạm Tiến Duật được chú ý nhiều. Ông còn được ca tụng là “con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại”, “cây săng lẻ của rừng già”, “nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ”. Thơ ông thời chống Mỹ từng được đánh giá là “có sức mạnh của một sư đoàn”.

Làm nên giá trị ấy là bởi những bài thơ của Phạm Tiến Duật luôn bám sát và phản ánh kịp thời, chân thực cuộc sống và chiến đấu của bộ đội Trường Sơn. Mặt khác, ông lựa chọn phản ánh hiện thực chiến tranh khốc liệt bằng một giọng thơ hóm hỉnh, sôi nổi, vui tươi và đầy tinh nghịch. Giọng thơ ấy tỏ ra gần gũi và phù hợp với tâm lí và tính cách người lính. Nó có sức mạnh cổ vũ tinh thần chiến đấu, hi sinh, ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù của con người trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Nó truyền cho người lính niềm tin và sức mạnh chiến đấu kiên cường.

Điều đó chứng thực rõ ràng trong cách Phạm Tiến Duật nhìn nhận về hiện thực. Ông tỏ ra tài tình khi miêu tả những chiếc xe không kính, một hình ảnh thường thấy trên tuyến đường Trường Sơn thuở ấy. Hình tượng những chiếc xe không kính hiện lên chân thực, rõ ràng với tất cả những tổn thương thảm khốc do bom đạn kẻ thù gây ra:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi

Đâu chỉ có thế, chiếc xe còn bị hủy hoại đến thảm thương:

Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước.

Bình thường, những chiếc xe không kính không thể gọi là cái đẹp nhưng tác giả đã lấy hình tượng đó làm cảm hứng xuyên suốt bài thơ. Hình tượng độc đáo nhưng hợp lý này có tác dụng gây ấn tượng mạnh, là cơ sở để làm nổi bật phẩm chất dũng cảm, sự lạc quan và quyết tâm giành chiến thắng của anh lính lái xe thời chống Mĩ. Những chiếc “xe không kính” , “không có đèn”, “không có mui, “thùng xe có xước” ấy đã gợi lên những nguy hiểm cận kề; “bom giật, bom rung” làm vỡ kính xe…

Hình tượng những chiếc xe không kính cũng đã góp phần cụ thể hóa những khó khăn gian khổ mà anh bộ đội lái xe phải chịu đựng.  Điệp ngữ: “không có kính” ở đầu các khổ thơ vừa có tác dụng nhấn mạnh cho ta cảm nhận được gian khổ, nguy hiểm sự khốc liệt của hiện thực cuộc chiến đối với người lính Trường Sơn vừa khắc họa được nét tiêu biểu của con người Việt Nam: dù thiếu thốn, khó khăn vẫn kiên cường chiến đấu. Sự hi sinh, cái chết đã ở đâu đó, rất gần những người lính:

Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Trong hiểm nguy, gian khổ nhưng người lính vẫn luôn ở tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu vì miền Nam. Với ý chí chiến đấu cùng niềm lạc quan của tuổi trẻ, với người lính, mọi hiểm nguy, gian khó đã không hiện hình. Trước mắt họ là cả bầu trời rộng lớn với biết bao điều kì thú. Phạm Tiến Duật đã dành hết ba khổ thơ để miêu tả tinh thần lạc quan, yêu đời, ý chí vượt khó vượt khổ, đạp bằng hiểm nguy của người lính:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.

Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Với người khác, có lẽ đó là một sự xa sỉ. Nhưng với Phạm Tiến Duật, điều đó rất cần thiết. Đối với ông, ở người lính lái xe không có kính thì đó là những trở ngại rất lớn. Gió, cản vật, bụi, mưa,… là những kẻ thù vô hình. Nó có thể gây nguy hiểm tức thời nếu người lính không chú ý. Thế nhưng, giờ đây, những điều hiểm nguy ấy gần gũi và thân thiết như những người bạn đường. Họ bình tâm đón nhận và vui cười hớn hở. Thiên nhiên khắc nghiệt giờ đây lại hết sức thân thiện, bao dung, che chở cho họ trên đoạn đường ra mặt trận.

Trong bom đạn khốc liệt của chiến tranh, anh chiến sĩ vẫn giữ vững tư thế hiên ngang hướng về phía trước, thực hiện khẩu hiệu: “tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Những từ ngữ chọn lọc; “ung dung”, “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng” thể hiện tư thế, phong cách anh bộ đội lái xe trên đường ra trận.

Với hệ thống ngôn ngữ bình dị, âm điệu vui tươi thể hiện niềm lạc quan yêu đời của tuổi trẻ sống có lý tưởng và tư thế hiên ngang, lòng dũng cảm đã làm nên sức mạnh của anh bộ đội. Sức mạnh ấy còn được nhân lên gấp bội vì cành anh còn có cả tập thể anh hùng. Từ trong bom đạn hiểm nguy, “tiểu đội xe không kính” được hình thành, bao giờ những con người từ bốn phương chung lý tưởng, gặp nhau thành bạn bè.

Nhưng dù khó khăn ác liệt đến mấy, ý chí chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của anh bộ đội vẫn không hề lay chuyển:

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Cách nói ngắn gọn mà chắc nịch kiểu lính của các chiến sĩ lái xe khiến cho ta càng tin tưởng hơn ở sức mạnh chiến thắng của dân tộc. Ta bỗng nhận ra sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc đâu chỉ ở vũ khí và tài năng chiến đấu của nhân dân mà còn ở niềm tin không bao giờ lay chuyển được đang ngự trị trong trái tim của mỗi con người Việt Nam trước tội ác và hành dộng xâm lược của kẻ thù.

Thành công của Phạm Tiến Duật là ở chỗ ông viết thơ mà như nói. Cái giọng thơ ngang tàn, có cả chất nghịch ngợm, rất phù hợp với những đối tượng miêu tả là người lính vốn rất tinh nghịch, không câu nệ hình thức. Kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ, tạo cho bài thơ có điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động. Tính nhạc từ đó cũng nảy sinh.

Với những ưu điểm ấy, bài thơ đã rất thành công trong việc khắc họa hình ảnh những anh bộ đội lái xe trên tuyến đường Trường Sơn đầy gây go, thử thách, một lực lượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Họ dâng hiến tuổi xuân không tiếc máu xương để góp phần đưa non sông ta thu về một…

  • Kết bài:

Bút pháp lãng mạn cách mạnh đã giúp tác giả “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp hình tượng người lính lái xe ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất, thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh. Đó cũng là dư âm còn động lại và mãi mãi lan tỏa trong mọi thế hệ người đọc Việt Nam khi đọc bài thơ này.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang