Ý nghĩa đoạn 2 bài thơ “Nói với con” của Y Phương
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”.
(Nói với con – Y Phương)
Cảm nhận ý nghĩa đoạn thơ trên. Từ đó hãy liên hệ với bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải để bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca, tự hào về con người, về đất nước quê hương mà em biết để thấy điểm gặp gỡ giữa những tác giả khi viết về nội dung này.
- Mở bài:
Y Phương quê ở Cao Bằng, người dân tộc Tày, thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi. Bài thơ “Nói với con” được viết năm 1980, in trong tập Thơ Nam 1945, là lời tâm sự của tác giả với đứa con gái đầu lòng và với chính bản thân. Đặc biệt đoạn 2 của bài thơ: “Người đồng mình thương lắm con ơi… Nghe con” không chỉ là lời dặn dò đơn giản mà còn là tất cả tình cảm trân trọng, ngợi ca, tự hào về con người, về đất nước quê hương.
- Thân bài:
Bằng những hình ảnh thơ đẹp, giản dị bằng cách nói cụ thể, độc đáo mà gần gũi của người miền núi, người cha muốn nói với con rằng: vòng tay yêu thương của cha mẹ, gia đình, nghĩa tình sâu nặng của quê hương làng bản. Đó là cái nôi đã nuôi con khôn lớn, là cội nguồn sinh dưỡng của con. Con hãy khắc ghi điều đó.
Trong cái ngọt ngào của kỉ niệm về gia đình và quê hương,người cha đã tha thiết nói với con về những phẩm chất tốt đẹp của “người đồng mình”. Điệp ngữ “người đồng mình” có thể nói là điểm nhấn khá quan trọng của thi phẩm này. “Người đồng mình” là cha mẹ, là đồng bào, những người cùng quê hương, dân tộc Tày, Nùng.
Với lời nói mộc mạc, giản dị, hình ảnh cụ thể, những điệp ngữ, điệp từ, cách sử dụng cụ thể, kết họp với nhiều kiểu câu ngắn, dài khác nhau, tác giả gợi bao tình yêu thương đối với “người đồng mình”. “Người đồng mình” sống vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ nhưng lạc quan, chân chất, yêu đời, mạnh mẽ, khoáng đạt với chí lớn, luôn yêu quý, tự hào và gắn bó với quê hương. “Người đồng mình” không chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước: Người cha muốn giáo dục cho con sống phải có nghĩa tình, chung thủy với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua gian nan thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình:
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”
Người đồng minh sống vất vả mà mạnh mẽ, khoáng đạt, bền bỉ, gắn bó với quê hương, thủy chung với nơi chôn nhau cắt rốn cho dù quê hương còn cực nhọc, đói nghèo. Biết lấy chiều “cao” (để) đo nỗi khoảng cách “xa” (để) “nuôi chí lớn”, không bao giờ lùi bước trước mọi thử thách, khó khăn, tâm càng sáng, chí càng cao, tầm nhìn càng xa rộng, tràn đầy niềm vui và lòng lạc quan.
Người đồng mình mộc mạc, dung dị, giàu ý chí, niềm tin. Họ có thể “thô sơ da thịt” – mộc mạc thô sơ trong dáng hình, cử chỉ; trong cách ăn mặc giản dị, cuộc sống thiếu thốn nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn và ý chí. Họ biết lo toan và mong ước: “Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”. Họ biết tự lực, tự cường xây dựng quê hương duy trì truyền thống với những tập quán tốt đẹp của người đồng mình. Lấy cái cao, cái xa của đất trời để làm thước đo kích cỡ của nỗi buồn và chí hướng. Những nỗi niềm và khát vọng của họ mang tầm vóc của núi cao sông dài:
“Sống trên đá không chê đả gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”.
Người đồng mình là thế đấy. Tuy không giàu có nhưng chẳng mấy ai nhỏ bé, chẳng mấy ai cúi đầu khuất phục trước khó khăn, thử thách. Từ đó, người cha mong muốn con phải có nghĩa tình chung thủy với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua khó khăn, thử thách bằng ý chí, nghị lực và niềm tin của mình. Người cha muốn con hiểu và giữ được bản sắc của “người đồng mình” dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nhà thơ cũng gợi ra những đức tính, phẩm chất đáng quý của “người đồng mình” như chấp nhận khó khăn, thử thách, hồn nhiên, mạnh mẽ, bền bỉ và phóng khoáng:
“Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”.
Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sống trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người.
Đoạn thơ rất dồi dào nhạc điệu, tạo nên bởi điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu và nhịp thơ rất linh hoạt, lúc vươn dài, khi rút ngắn, lời thơ giản dị, chắc nịch mà lay động, thấm thía, có tính truyền cảm mạnh mẽ, thái độ rất đỗi tự hào. Để nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống người đồng mình:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”.
Câu thơ có hai lớp nghĩa: nghĩa tả thực: “Đục đá kê cao” là hoạt động cố thực thường thấy ở miền núi. Quê hương vốn là khái niệm trừu tượng, chỉ nơi chốn sinh thành của một người nào đó; nghĩa ẩn dụ: nói “đục đá kê cao quê hương” là muốn khái quát về tinh thần tự tôn, ý thức xây dựng bảo tồn quê hương, vãn hóa, cội nguồn, góp phần tạo nên phong tục, truyền thống đẹp đẽ của quê hương.
Một loạt các hình ảnh rất quen thuộc trong cuộc sống của con người vùng cao: đá, thung, ghềnh, thác, suối, sông. Đó là không gian gần gũi của họ, đó cũng là những hình ảnh diễn tả những khó khăn chồng chất, là cái nghèo cái khó trong cuộc sống lam lũ của con người quê hương. Những câu thơ với nhiều âm tiết khép, nhiều thanh trắc, cách ngắt nhịp dài ngắn không đều nhau, làm cho giọng thơ khi vươn dài đầy gắng gỏi, khi rút ngắn một cách chắc nịch, vừa gợi lên cải nhọc nhằn gian khó của cuộc sống, lại vừa thể hiện sự cứng cỏi, vững vàng đầy mạnh mẽ của con người quê hương.
Bên cạnh những hình ảnh diễn tả sự khó khăn chồng chất, điệp từ “sống” đặt lên đầu mỗi câu thơ đã thể hiện cái tư thế kiêu hãnh hiên ngang của con người quê hương. Họ dám chấp nhận tất cả, dám đương đầu với mọi khó khăn thử thách. Họ luôn sống mạnh mẽ, cứng cỏi, khoáng đạt như sông như suối, luôn gắn bó bền bỉ, thủy chung với quê hương cho dù đó còn là một quê hương nghèo khó, vất vả. Đó không chỉ là tình yêu thương, niềm tự hào về quê hương xứ sở mà còn là cách sống, lẽ sống của mỗi con người.
“Đá” xuất hiện trong thơ Y Phương như một hình tượng đầy sức ám ảnh. Gập ghềnh gian khó là đá, cứng cỏi hiên ngang cũng là đá. Câu thơ là một cách nói mang đậm dấu ấn tư duy của người vùng cao. Lời thơ gân guốc, hình ảnh thơ vừa cụ thể vừa giàu tính khái quát, làm rạng ngời lên vẻ đẹp của con người quê hương: vẻ đẹp của sự cần cù nhẫn nại, ý chí bền bỉ, nghị lực phi thường vẻ đẹp của sức manh tự cường, tinh thần tự chủ, bằng bàn tay khối óc, bằng ý chí, niềm tin và khát vọng, họ đã làm nên một quê hương với những truyền thống tốt đẹp, đáng tự hào.
Ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, cha mong con sống có tình nghĩa với quê hương, phải giữ đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của cha ông từ bao đời để lại. Hơn nữa, con phải biết chấp nhận gian khó và vươn lên bằng ý chí của mình. Người cha muốn con hiểu và cảm thông với cuộc sống khó khăn của quê hương, tự hào về truyền thống quê hương, tự hào về dân tộc để vững bước trên con đường đời, để tự tin trong cuộc sống.
Hãy tự hào về quê hương, hãy sống có ý chí và khát vọng, hãy luôn ngẩng cao đầu và bước đi bằng niềm tin, nghị lực của chính mình. Đó là cách để con sống xứng đáng với quê hương, vẫn giọng thơ tha thiết nhưng có cả sự nghiêm nghị, rắn rỏi. Đó là những lời dặn dò ân càn tha thiết, nhưng cũng là một mệnh lệnh: hãy tự tin vững bước trên đường đời dài rộng bằng chí khí mạnh mẽ ‘và tâm hồn lớn lao. Hãy sống xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của quê hương.
Kết thúc bài thơ là lời nhắn nhủ, dặn dò của người cha mong muốn con mình phải tự hào về truyền thống tốt đẹp cửa quê hương, hãy lấy những tình cảm đó làm hành trang để “lên đường”, vững bước trên đường đời:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”.
Nếu phần một của bài thơ là một khúc hát nhẹ nhàng, tươi vui với hoa ngan ngát, với những tiếng ríu rít tiếng nói cười, với bao nghĩa tình thơm thảo, thi phần hai là một bản hành khúc vừa tha thiết vừa mạnh mẽ, mang âm hưởng của thác ghềnh, sông suối, mang theo cả hơi thở, cả chí khí, niềm tin, sức mạnh của con người quê hương. Qua đó, người cha muốn trao gửi cho con niềm tin yêu, khát vọng.
Hình ảnh “thô sơ da thịt” lặp lại hai lần như muốn con khắc ghi người đồng mình tuy mộc mạc, chân chất nhưng có lẽ sống cao đẹp. Trên đường đời con phải sống cao thượng, tự trọng để xứng đáng với họ. Con “không bao giờ nhỏ bé” dù con đường phía trước còn nhiều chông gai. Con hãy tự tin bước đi, bởi sau lưng con có gia đinh, quê hương, bởi trong tim con sẵn ẩn chứa những phẩm chất quý báu của người đồng minh.
Hai tiếng “Nghe con” chứa đựng tấm lòng yêu thương, ki vọng và niềm tin sâu nặng cha đặt nơi con: mong con biết sống sao cho tốt, cho xứng đáng vói tình cảm của cha. Hai tiếng ấy khép lại bài thơ để lại một dư âm nhẹ nhàng mà âm vang xao xuyến: mong con sống có tình nghĩa, biết chấp nhận gian khó, vươn lên bằng ý chí của mình, vững vàng trên đường đời. Điều lớn lao nhất mà người cha muốn truyền cho con chính là lòng tự hào với quê hương và niềm tự tin khi bước vào đời. Nói với con mà chính là cha đã trao tặng cho con. Cha đã vun đắp cho con những tình cảm tốt đẹp, cho con một hành trang quý và đã sẵn sàng tung cánh cho con bay đi khắp mọi nơi.
Bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca, tự hào về con người, về đất nước quê hương không chỉ có tác phẩm “Nói với con” của Y Phương. Đoạn thơ “Mùa xuân người cầm súng.,. Cứ đi lên phía trước” trích trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải đã thể hiện những cảm xúc đầy ấn tượng.
Đoạn thơ thể hiện sự liên tưởng của tác giả đến mùa xuân đất nước với một niềm tự hào, xúc động thiêng liêng về lịch sử bốn nghìn năm dẫu “vất vả và gian lao nhưng vẫn lấp lánh, trường tồn, bất diệt. Hình ảnh đất nước nổi bật với không khí náo nức, khẩn trương khi bước vào mùa xuân mới vừa bảo vệ vừa dựng xây Tổ quốc. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của “người cầm súng” và “người ra đồng”, những người đã gieo mùa xuân, bảo vệ mùa xuân, tạo nên sức sống mùa xuân trên mọi miền đất nước.
Khát vọng cống hiến mùa xuân, tuổi trẻ cho đất nước được biểu hiện bằng thể thơ năm chữ nhẹ nhàng, tha thiết, hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng, khái quát, ngôn ngữ thơ trong sáng, gợi tả, gợi cảm, phát huy triệt để giá trị các hình thức điệp và biện pháp tu từ khác như ẩn dụ, hoán dụ… Hai đoạn thơ đều bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca, tự hào về con người, về đất nước quê hương. Cả hai đoạn thơ đều giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm, cũng như thấm thìa hơn tình cảm của tác giả thể hiện trong bài thơ.
- Kết bài:
Đoạn 2 bài thơ “Nói với con” mang giọng điệu thủ thỉ, tâm tình tha thiết, trìu mến hay có sự biến đổi phù hợp với nội dung từng đoạn, dù thể hiện tình yêu thương sâu sắc của cha mẹ dành cho con cái hay những rung cảm tinh tế của nhà thơ trước vẻ đẹp của mùa xuân và khát vọng được cống hiến cho đất nước, cuộc đời. Cả hai bài thơ đều đã bộc lộ được niềm tự hào về quê hương, đất nước và lời nhắn gửi cũng như lòng tín mãnh liệt vào những giá trị tích cực vĩnh cửu của dân tộc. Tuy hai thời điểm, hai suy nghĩ nhưng đều hướng khẳng định: Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương, chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người