Nghệ thuật tả người bậc thầy của Nguyễn Du qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều.
- Mở bài:
Truyện Kiều là kiệt tác văn học của đại thi hào Nguyễn Du và của nền văn học dân tộc. Tác phẩm có giá trị phản ánh bộ mặt tàn ác, bất công của xã hội phong kiến đương thời, niềm thương cảm xót xa của tác giả đối với số phận con người. Một trong những thành công lớn, góp phần đưa Truyện Kiều lên hàng tuyệt tác là tài năng nghệ thuật tả người bậc thầy của thiên tài Nguyễn Du. Tài năng ấy được thể hiện hết sức rõ ràng qua bức chân dung tuyệt sắc của chị em Thúy Kiều.
- Thân bài:
Chỉ trong 24 câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã tài tình vẽ nên chân dung của hai người con gái đẹp không bút mực nào tả xiết. Đặc biệt nơi người chị cả Thúy Kiều còn có cả sự uyên bác, tài năng và một tâm hồn đầy nhạy cảm của lứa tuổi thanh xuân trăng tròn:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Bốn câu thơ đầu tiên đã khái quát hai chị em Thúy Kiều. Với sự mĩ miều, thanh thoát người con gái tuyệt sắc. Ngay tại đây, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng để so sánh cốt cách, dáng vẽ thanh tú của hai cô gái với mai và tâm hồn trong sáng của họ với tuyết nhằm khẳng định sự duyên dáng, thanh tạo nơi những người thiếu nữ sắc nước hương trời, mười phần toàn vẹn ấy. Dẫu biết rằng “nhân vô thập toàn” nhưng hai chị em nhà họ Vương đều hoàn hảo đến mức đáng kinh ngạc.
Tiếp đến, nhà thơ bắt đầu gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đày đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”.
Câu mở đầu vừa giới thiệu vừa khái quát đặc điểm của nhân vật Thúy Vân “trang trọng khác vời”. Sắc đẹp của nàng ấn tượng ở sự trang trọng, quý phái, cao sang được thể hiện qua sáu nét: gương mặt, đôi chân mày, nụ cười, giọng nói, mái tóc và làn da. Vẻ nét đẹp ấy được ví với các hình tượng thiên nhiên. Nguyễn Du vẽ lên nàng Thúy Vân với khuôn mặt phúc hậu như vầng trăng tròn tỏa sáng và đôi chân mày đậm như con ngài, rất tự nhiên, hiền hậu, không chút tia tót. Khi nàng cười, gương mặc rạng rỡ bừng bừng lên sức sống tươi trẻ như hoa nở. Giọng nói của nàng với âm thanh trong trẻo, êm tai như ngà ngọc. Mái tóc nàng óng mượt như mây. Làm da trắng mịn như tuyết như nhung.
Có thể nói, ở Thúy Vân toát ra nét đẹp thùy mị, xinh tươi và đoan trang đúng mực. Qua bút pháp ước lệ, tượng quen thuộc, thần thục và nghệ thuật sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ nơi Nguyễn Du, Thúy Vân hiện lên toàn vẹn như tiên nữ giáng trần, không một chút khiếm khuyết. Cái hay ở đây là tác giả gợi chứ không tả. Gợi là chỉ phác họa từ hình thức đến thần thái chứ không có một nét chạm khắc thô vụng nào. Do đó chỉ cần phác họa vài nét với bút pháp tượng trưng ước lệ trong miêu tả mà tác giải đã khắc họa đậm nét trong tâm chí người đọc mọi sự hình dung một thiếu nữ với sự đoan trang, thùy mị vô cùng tinh tế. Thế nhưng, vẻ đẹp ngôn phong của Thúy Vân không dừng lại ở đó mà còn là sự đoan trang đáng quý trong lời ăn tiếng nói, trong giao tiếp của một người con gái có học thức, văn hóa, gia phong, lễ nghĩa. Nàng đẹp như một bức tranh được thêu dệt bởi phép màu nào đó khiến lòng ta phải ngưỡng vọng, sùng kính.
Tiếp đến, Thúy Kiều xuất hiện trong sự ngỡ ngàn của người đọc. Một pho tuyệt sắc hiện ra không lời lẽ nào kể xiết:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa nhen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiên thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”.
Bước ta từ câu thơ, Thúy Kiều hiện lên với vẻ đẹp vừa “sắc sảo” vừa “mặn mà”. “Sắc sảo” ở tinh anh khí chất, “mặn mà” ở nét duyên phi phàm. So với Thúy Vân, vẻ đẹp của thúy Kiều gấp bội phần
Miêu tả Thúy Vân, Nguyễn Du đã dùng đến sáu nét, miêu tả hết các vẻ đẹp của khuôn mặt, chân mày, nụ cười, mái tóc, làn da,… nhưng đến với Thúy Kiều, ông đặc tả chỉ mỗi một đôi mắt, vẫn tiếp tục bằng bút pháp ước lệ tượng trưng: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”. “Làn thu thủy gợi” lên vẻ đẹp của đôi mắt. Đó là một đôi mắt tuyệt đẹp, trong sáng long lanh với cái nhìn trong văn vắt và tĩnh lặng như nước thu mùa thu. Còn “nét xuân sơn” gợi lên đôi chân mày thanh tú cong cong, cao cao gợi cảm như dáng núi mùa xuân. Chính đôi mắt đẹp ấy đã mở ra tâm hồn mơ mộng, giàu chất thơ, đa sầu, đa cảm nơi người thiếu nữ tuổi xuân thì. Một đôi mắc đã níu chân anh hùng, tài tử. Một đôi mắt biết nói. Và nơi đôi mắt phản ánh được sự tinh anh trong tâm hồn và trí tuệ như thế, cái nhìn của nàng có thể làm rung động mọi con tim, đến độ “nghiêng nước nghiêng thành” như trong một bài thơ cổ Lí Diên Niên đã từng viết:
“Bắc phương hữu giai nhân
Tuyệt thế nhi đọc lập
Nhất cố nhân khuynh thành
Tái cố nhân khuynh quốc”.
So sánh bút pháp miêu tả ở hai bức chân dung tuyệt sắc, ta dễ thấy rõ Nguyễn Du đã rất khéo léo lựa chọn hình ảnh để vừa với nhân vật.
+ Miêu tả đôi mắt của Thúy Vân, Nguyễn Du chú trọng gợi tả hàng chân mày đầy đặn, so sánh với nét ngài nhằm khẳng định sự phúc hậu của nàng; miêu tả đôi mắt của Thúy Kiều, Nguyễn Du chú trọng đến ánh mắt, so sánh với mặt nước hồ thu (làn thu thủy) trong trẻo và thẳm sâu. Miêu tả hàng chân mày chảu Thúy Kiều, Nguyễn Du so sánh với dáng núi mùa xuân (nét xuân sơn) xanh tươi, tràn đầy sức sống.
+ Miêu tả nụ cười của Thúy Vân, Nguyễn Du so sánh với đóa hoa nở tự nhiên và nhuần nhị, dẽ dàng đoán nhận, miêu tả nụ cười của Thúy Kiều, Nguyễn Du so sánh với vẻ đẹp của đóa hoa nhưng trong tư thế ganh ghét, đố kỵ kịch liệt.
+ Miêu tả dáng vóc của Thúy vân, Nguyễn Du chú trọng đến làn da trắng như tuyết, miêu tả dáng vóc của Thúy Kiều, Nguyễn Du chú trọng đến toàn thể. Hình ảnh so sánh (dáng liễu) cũng toàn vẹn hơn.
+ Hình ảnh so sánh mang tầm vóc to lớn hơn hẳn khi miêu tả Thúy Vân.
Ở Thúy Kiều, tác giả còn gợi lên cái tài, cái tình, cái tấm lòng của nàng chứ không chỉ dung mạo, nhan sắc tuyệt thế:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương lầu bật ngữ âm,
Nghề riêng đức hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh tại càng bảo nhân.
Nàng không những thông minh mà lại còn rất tài năng. Tài năng ấy đã đạt đến mức lý tưởng của thẩm mỹ phong kiến. Nàng xuất sắc ở cả bốn lĩnh vực: cầm – kì -thi – họa. Ở lĩnh vực nào nàng cũng đều tỏ ra thông thạo vượt trội. Trong đó đánh đàn là sở trường của nàng. Cung đàn bất hủ với những bản nhạc buồn da diết còn vượt trên cả tay đàn tì bà cự phách nhất – Vương Chiêu Quân. Đó không chỉ là hay, mà hay tới mức rung động, có khiến cho lòng người sầu não theo.
Dẫu còn ở tuổi thanh xuân nhưng người con gái này đã sớm rầu muộn, viết nên khúc “Bạc mệnh” nghe tê tái, xót xa. Điều này thêm nhấn mạnh ở Kiều là một tâm hồn nhạy cảm chứ không chỉ trong sáng, giản đơn như tuyết trắng, hoa tươi.
Như vậy, cũng chỉ bằng cách phác họa vài nét, thậm chí có phần sơ lược hơn khi miêu tả Thúy Vân nhưng Nguyễn Du đã thể hiện được rỏ ngoại hình và tình cách nhân vật: đó là vẽ đẹp hoàn diện của nhan sắc – tài năng – tâm hồn.
Cái nổi bật thứ hai tong bút pháp tả người của Nguyễn Du chính là so sánh, tạo nền và đòn bẫy. Sự so sánh đầu tiên cũng là sự rõ rệch nhất là giữa thúy Vân và Thúy Kiều. Trước hết, sự so sánh này bản thân nó đã là một sáng tạo từ kịch bản “Kim Vân Kiều truyện”. Trong khi Thanh Tâm Tài Nhân mở đầu thiên truyện bằng việc miêu tả theo thứ tự chị trước – em sau, Nguyễn Du đã khéo léo dùng nghệ thuật đoàn bẫy để nhấn mạnh vẻ đẹp tuyệt trần của kiều. Không những đẹp như vẻ đẹp vốn có của người con gái mà còn hơn thế, đẹp cả ở sự tài hoa, ở tâm hồn, ở cả phẩm đức.
Giáo sư Nguyễn Lộc đã từng nhận xét về thành công của đoạn trích khi sử dụng thủ pháp này: “Nhà thơ đã cực tả Thúy Vân tưởng như sắc đẹp của thúy vân không ai hơn nữa đẻ rồi sau đó, Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy vân trở thành một cái bóng tôn lên sắc đẹp của Thúy Kiều” . Sự khác biết còn ở số dòng tác giả sử dụng để miêu tả nhân vật nữa. Trong khi gợi tả Thúy Vân trong bốn câu thơ, Nguyễn du lại cực tả vẻ đẹp của Thúy Kiều trong những mười hai dòng.
Bên cạnh đó, Thúy Kiều còn được đưa vào sự so sánh chung với nữ nhi thiên hạ: “sắc đành đòi một tài đành họa hai”. Nếu tài năng của nàng có thể có người thứ hai sánh bằng thì sắc đẹp của nàng là duy nhất, không gì sánh được. Đó là một sắc đẹp tuyệt bích, ngoại hạng, đạt đến độ trác việt.
Nhưng chính bởi một nhan sắc đệ nhất thiên hạ và vẻ đa sầu, đa cảm, đa tài, đa tình mà Thúy Kiều cũng gặp biết bao hoạn nạn. Trong khi nơi Thúy Vân toát nên vẻ đẹp hồn nhiên, vô tư, phúc hậu, hiền từ và hài hòa đến mức mây phải “thua”, tuyết phải “nhường” thì vẻ đẹp của Thúy Kiều đã làm thiên nhiên phải “ghen”, phải “hờn”. Ngay từ phương diện nhan sắc, Nguyễn Du đã khéo “gieo trong người nàng những hạt giống của sự tiêu cực”.
Chính vì cái đẹp làm nảy sinh sự ghen tuông từ vạn vật, trời đất mà cái nghiệp của nàng rất nặng. Ngoài ra, một dấu hiệu khác của tai họa chính ở tài năng của nàng. Bởi tâm hồn nàng nhạy cảm như một dây đàn mà chỉ cần rung lên là làm người đời phải sầu đến thấm thía tâm can. Như vậy, không chỉ ở ngoại hình mà trong tâm hồn nàng đã có “hạt giống của sự đau buồn”. Cái mầm ấy đã cho nàng sự đa cảm tinh tế mà không phải ai cũng có. Ngay cả đối với những thứ mà hai em nàng cho là bình thường và dửng dưng cũng có thể khiến nàng thổn thức.
Qua việc miêu tả tài sắc nhân vật mà Nguyễn Du cũng đã đồng thời dự báo số phận nhân vật. Có thể nói ông đã đưa truyện Kiều đến đỉnh cao mà trong đó, thuyết tài mệnh tương đố chi phối cả tác phẩm. Theo thuyết này, hai yếu tố tài và mệnh có vai trò nhất đinh trong sự quyết định một người sẽ đau khổ hay hạnh phúc. Mà nơi Thúy kiều, cả hai cùng đến mức tột đỉnh thì “nghìn thu bạc mệnh, một đời tài hoa”.
Thật vậy sau này đang sống trong cảnh “êm đềm trướng rũ màng che” cùng cha mẹ và các em thì nàng đã phải hi sinh tuổi thanh xuân, trải qua mười lăm năm sóng gió phiêu bạc tàn khốc. Trong khi Thúy Kiều đã phải gánh trên vai cả gia biến thì Thúy Vân, với nét đẹp hài hòa, hiền hậu với tạo hóa đã có cuộc đời bình yên và hạnh phúc.
Đoạn trích “Chị em Thúy kiều” là một thành công trong bút pháp của miêu tả của Nguyễn Du. Ông đã tài tình sử dụng nghệ thuật đòn bẩy và thủ pháp ước lệ tượng trưng để khắc họa ngoại hình, tính cách của nhân vật, đồng thời qua đó dự báo của số phận của nhân vật.
Nguyễn Du đã vẻ bức chân dung của hai tuyệt sắc giai nhân với vẻ đẹp toàn mĩ. Riêng ở Thúy Kiều thì đó còn là vẻ đẹp chưa từng có ở trên đời. nàng đẹp từ dung nhan đến đức hạnh, tài năng. Ông đã sử dụng nghệ thuật lý tưởng hóa để thể hiện cả tấm lòng trân trọng, yêu thương và ngưỡng mộ vẻ đẹp của con người.
- Kết bài:
Nếu như Việt Nam có niềm kiêu hãnh lớn lao về sự can trường anh dũng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm thì việc dạy văn chương cũng là một sự tự hào không nhỏ. Trong đó, chúng ta không thể không nhắc về Truyện Kiều và công sức đống góp vì nghệ thuật của Nguyễn Du. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã đưa nghệ thuật tả người đạt đến đỉnh cao kiệt xuất, khẳng định sức mạnh biểu đạt của tiếng Việt và thể thơ lục bát của dân tộc ta.
Chứng minh: Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân và Thúy Kiều là ngầm dự báo về số phận mỗi người