co-the-noi-bai-tho-la-mot-thu-tieng-long-gian-di-hon-nhien-ma-am-vang-cua-no-con-lam-thon-thuc-long-nguoi-mai-mai

Qua bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương hãy làm sáng tỏ ý kiến: Có thể nói bài thơ là một thứ tiếng lòng giản dị, hồn nhiên mà âm vang của nó còn làm thổn thức lòng người mãi mãi.

Có nhận xét như sau về bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương: Có thể nói bài thơ là một thứ tiếng lòng giản dị, hồn nhiên mà âm vang của nó còn làm thổn thức lòng người mãi mãi.

Hãy lắng nghe tiếng lòng giản dị, hồn nhiênâm vang từ bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.

I. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả: Viễn Phương là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam. ông thường tập trung khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của nhân dân, đất nước trong cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Lối viết của ông nhỏ nhẹ, trong sáng, giàu cảm xúc và lãng mạn.

– Giới thiệu tác phẩm:

+ Tháng 4 năm 1976, một năm sau khi đất nước được giải phóng, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành, Viễn Phương cùng đoàn đại biểu miền Nam ra thăm Hà Nội, vào lăng viếng Bác.

+ Bài thơ “Viếng lăng Bác”(in trong tập “Nhưmây mùa xuân”-1978) được ông viết với tất cả tấm lòng thành kính, biết ơn và tự hào, pha lẫn nỗi đau xót của một người con từ miền Nam ra viếng Bác lần đầu. Có thể nói bài thơ là một thứ tiếng lòng giản dị, hồn nhiên mà âm vang của nó còn làm thổn thức lòng người mãi mãi.

II. Thân bài:

1. Niềm xúc động mãnh liệt khi mới đến thăm lăng Bác (khổ 1):

– Ngay khi vừa đến bên ngoài lăng, nhà thơ đã bồi hồi, xúc động: “Con ở miền Nam ra thăm láng Bác”:

+ Cặp đại từ xưng hô “con – Bác” là cách xưng hô gần gũi, thân thiết của người miền Nam, vừa thể hiện sự tôn kính với Bác vừa bộc lộ tình cảm yêu thương dành cho một người ruột thịt, một người bể trên trong gia đình. Đọc câu thơ tưởng như Viễn Phương là một người con xa xứ nay mới được trở về bên người cha của mình.

+ Cách nói giảm nói tránh “thăm” làm giảm bớt nỗi đau thương, mất mát, đồng thời khẳng định sự bất tử của Người trong lòng những người con nước Việt.

→ Câu thơ giản dị như một lời kể nhưng lại thấm đượm bao nỗi bồi hồi, xúc động của nhà thơ, sau bao mong nhớ, đợi chờ, naỵ mới được đến viếng lăng Bác.

– Nhà thơ ấn tượng với “hàng tre xanh” bên ngoài lăng Bác:

+ Đây là hình ảnh thực làm nên quang cảnh đẹp cho lăng Bác, mang lại cảm giác thân thuộc, gần gũi của làng quê, đất nước Việt Nam.

+ Hình ảnh thơ chứa nhiều sức gợi. “Hàng tre bát ngát”“hàng tre xanh xanh” gợi vẻ đẹp tràn đẩy sức sống của con người và đất nước ta. vẻ đẹp cứng cỏi, kiên cường, hiên ngang, bất khuất của nhân dân được tái hiện rõ nét qua câu thơ “Bão táp mưa sa đứng thằng hàng”.Hàng tre bao quanh lăng còn tượng trưng cho cả dân tộc đang quây quần bên Bác.

Khổ 1 là niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ khi đứng trước lăng Người.

2. Nỗi tiếc thương và lòng biết ơn sâu nặng của nhà thơ khi vào viếng Bác (khổ 2):

– Nhà thơ đã sáng tạo cặp hình ảnh “mặt trời” thực (Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng) và “mặt trời” ẩn dụ (Thấy một mặt trời trong lâng rất đỏ)chỉ Bác Hổ, tạo nên sự song chiếu: Bác đã mang lại ánh sáng chân lí, giúp dân tộc thoát khỏi kiếp sống nô lệ lầm than cũng giống như mặt trời của tạo hóa mang lại sức sống cho muôn loài. Từ đó, khẳng định, ngợi ca sự vĩ đại của Bác và thể hiện tình cảm tôn kính, biết ơn của cả dân tộc đối với Người.

– Hình ảnh “dòng người” với điệp từ “ngày ngày” gợi dòng thời gian vô tận, vẽ lên khung cảnh những đoàn người lặng lẽ nối tiếp nhau, thành kính vào viếng Bác. Cách nói “đi trong thương nhớ” thể hiện nỗi nhớ tiếc của bao người dân Việt Nam trong giây phút vào lăng viếng Bác.

“Tràng hoa dâng 79 mùa xuân” (hay chính là 79 năm cuộc đời Bác đã hiến dâng trọn vẹn cho sự nghiệp giải phóng đất nước) được kết từ hàng triệu trái tim con người Việt Nam cùng bạn bè quốc tế, bày tỏ niềm tiếc thương, kính yêu vị Cha già dân tộc. Đó cũng là cách để nhà thơ khẳng định Bác sống mãi trong lòng nhân dân.

3. Niềm thương nhớ, nỗi xót xa của nhà thơ khi đứng trước di hài Người ….(khổ 3):

– Nhà thơ Viễn Phương đã tái hiện chân thực khung cảnh yên tĩnh, trang nghiêm trong lăng và dáng vẻ thư thái của Bác Hồ. Ánh sáng dịu nhẹ như thể nơi đây có sự hiện diện của vầng trăng. Người nằm đó như đang trong giấc ngủ bình yên:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”

– Dẫu đã nói giảm nói tránh “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên”nhưng nhà thơ vẫn không tránh khỏi nỗi đau xót vỏ bờ: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi / Mà sao nghe nhói ở trong tim”.

+ Hình ảnh “trời xanh” là một ẩn dụ, một lẩn nữa khẳng định sự bất tử của Bác trong tâm hổn dân tộc.

+ “Nghe nhói”: gợi nỗi đau đột ngột, bất ngờ, tê tái của một đứa con về muộn, không được gặp Người mà chỉ được ở bên di hài của Người.

– Đoạn thơ đã nói được nỗi lòng sâu kín của biết bao thê’ hệ con người Việt Nam dành cho Bác: lòng biết ơn, sùng kính, thương nhớ, xót xa,…

4. Cảm xúc của nhà thơ khi từ biệt (khổ 4):

– Nhà thơ lưu luyến, nhớ thương khi nghĩ về phút giây từ biệt: “Mai về miền Nam thương trào nước mát”. Hai tiếng “miền Nam” gợi khoảng cách xa xôi; gợi tấm lòng, tình cảm của con người miền Nam. Cụm từ “thương trào nước mắt” đã cụ thể hóa nỗi nhớ Bác Hồ.

– Ước nguyện hóa thân:

+ Điệp từ “muốn làm” tô đậm khát vọng thiết tha, cháy bỏng của nhà thơ.

+ Phép liệt kê “con chim”, “đóa hoa”, “câytre” có nghĩa thực – muốn làm cảnh đẹp bên lăng Người vẩn dụ cho lí tưởng cao đẹp – muốn canh giấc ngủ cho Người.

+ Bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của nhà thơ với vị Cha già dân tộc.

III. Kết bài:

– Bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi, giàu sức gợi; giọng điệu vừa chân thành, trang nghiêm, vừa sâu lắng vừa tha thiết, đau xót tự hào với các hình ảnh thơ vừa mang nghĩa tả thực vừa giàu giá trị tượng trưng, nhà thơ đã bộc lộ tình cảm yêu kính, niềm tiếc thương chân thành, vô hạn của cả dân tộc Việt Nam dành cho Bác. Đó cũng tiếng lòng giản dị, hồn nhiên mà âm vang của nhà thơ mãi còn làm thổn thức lòng người đọc đến mai sau.


Tham khảo 1:

  • Mở bài:

Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng Văn nghệ giải phóng miền Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước. Thơ của Viễn Phương dung dị, cảm xúc sâu lắng thiết tha, ngôn ngữ thơ đậm đà màu sắc Nam Bộ. Viếng lăng Bác là tác phẩm tiêu biểu của hồn thơ Viễn Phương. Nhận xét về bài thơ, có người cho rằng: Có thể nói bài thơ là một thứ tiếng lòng giản dị, hồn nhiên mà âm vang của nó còn làm thổn thức lòng người mãi mãi. 

  • Mở bài:

Tình cảm của tác giả được thể hiện cụ thể và rõ ràng ngay trong nhan đề bài thơ: “Viếng lăng Bác”. Đây là một nhan đề ngắn gọn nhưng để lại ý nghĩa sâu sắc. “Viếng” – chỉ hành động thăm hỏi, chia buồn khi có người mất. “Lăng Bác” là nơi Bác Hồ yên nghỉ. Như vậy, trước hết, nhan đề cho người đọc biết được sự kiện nhà thơ nhân dịp đất nước thống nhất đã ra thăm miền Bắc và vào lăng viếng Bác Hồ. Đồng thơ qua đó, Viễn Phương cũng bộc lộ tình cảm thành kính, yêu thương nhưng cũng đầy xót xa đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam.

Mạch cảm xúc vận động theo trình tự không gian, thời gian vào lăng viếng Bác. Đầu tiên, trước khi vào lăng bác, tác giả tập trung gợi hình ảnh về quê hương đất nước. Tiếp đến, cảm xúc về dòng người bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác, nhà thơ xúc cảm và suy ngẫm về lãnh tụ kính yêu được gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng: mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Cuối cùng, khi sắp phải trở về miền Nam, tác giả bộc lộ niềm mong ước được mãi mãi ở lại bên lăng Bác.

Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác. Tình cảm ấy được thể hiện một cách giản dị, hồn nhiên và chân thành ngay ở đầu bài thơ:.

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Đại từ nhân xưng “con” như là những thành kính, kính yêu dành cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. “Con và Bác” là cách xưng hô ngọt ngào thân thương rất Nam Bộ. Từ “thăm” làm giảm nhẹ nỗi đau thương mà vẫn không che giấu được nỗi xúc động của cảnh từ biệt sinh li.  Hình ảnh “hàng tre trong sương” gợi về hình ảnh quen thuộc với đất nước Việt Nam. Dù có “bão táp mưa sa” vẫn luôn  “đứng thẳng hàng”, Hình ảnh ấy khẳng định tinh thần hiên ngang bất khuất, sức sống bền bỉ của dân tộc.

Dần theo bước chân, nhà thơ tiến dần vào lăng Bác. Trong không khí trang nghiêm ấy, nhà thơ chợt thấy hiện ra hình ảnh của mặt trời. Một mặt trời của vũ trụ luôn luôn luân chuyển không ngừng nghỉ ngày và đêm. Mặt trời ấy “ngày ngày” đi qua lăng của Bác, sưởi ấm cho Người. Và từ đó, nhà thơ cũng chợt nhận ra “một mặt trời trong lăng rất đỏ”:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngay dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Một hình ảnh ẩn dụ “mặt trời” vô cùng tinh tế và đặc sắc. Bác Hồ – Người là vầng dương, con thuyền chỉ hướng cho dân tộc Việt Nam đi qua những ngày tăm tối nhất. Nếu như mặt trời của vũ trụ mỗi ngày tỏa xuống nhân gian thứ ánh sáng ấm áp, thì Bác Hồ – mặt trời của dân tộc Việt Nam cũng đã và luôn tỏa ra một nguồn ánh sáng vĩ đại soi tỏ con đường cho dân tộc. Trong thơ ca đã có không ít tác giả sử dụng hình ảnh của mặt trời để so sánh với Bác. Như Tố Hữu cũng đã từng nói:

“Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng”.

(Sáng tháng năm)

Nhưng ở đây, với Viễn Phương vẫn là hình ảnh ấy, mà lại mang một màu sắc riêng biệt vô cùng. Nếu như mặt trời ngoài kia mỗi ngày đều đỏ rực, thì mặt trời trong lăng đây cũng đỏ rực sắc màu của chính mình. Màu đỏ ấy toát lên từ phẩm chất con người của Hồ Chí Minh, từ lý tưởng vĩ đại mà Người mang tới, từ ý chí bất khuất, kiên cường đấu tranh mà Người đã thể hiện, từ công lao mà Người đã làm nên.

Tất cả những điều đó tạo nên một mặt trời rực rỡ, sánh ngang bằng với mặt trời của vũ trụ ngoài kia. Tác giả đã khéo léo sử dụng ở đây điệp từ “ngày ngày”. “Ngày ngày” tức là sự liên tục của thời gian, sự lặp lại tuần hoàn của thiên nhiên cũng như lý tưởng, ý chí của Người sẽ luôn luôn sáng tỏ như mặt trời kia vậy. Lần thứ hai, “ngày ngày” được lặp lại khi diễn tả dòng người đang lặng lẽ vào lăng thăm Người. Hàng người đi trong sự trang nghiêm và tĩnh lặng, trong nỗi tiếc thương, đau xót vô vàn.

Ở đây, tác giả đã thật tinh tế khi không phải là đoàn người, hàng người mà là dòng người. Điều này khiến cho người đọc như cảm thấy được sự tĩnh lặng, sự trải dài miên man vô tận của hàng người vào viếng Bác. Cả đoàn người ấy cứ lặng lẽ “đi trong thương nhớ”, thương nhớ vị lãnh tụ vĩ đại vô vàn kính yêu của dân tộc. Nỗi nhớ ấy đã kết thành “tràng hoa”, dòng người ấy đã trở thành một tràng hoa dài vô tận để dâng lên Bác Hồ.

Và Viễn Phương hòa cùng dòng người ấy đem tấm lòng yêu kính chân thành của mình dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân” của Người. “Bảy mươi chín mùa xuân” là số tuổi của Bác Hồ. Cả cuộc đời Người, với bảy mươi chín mùa xuân, tất cả đều cống hiến cho dân tộc, không một phút giây nào ngơi nghỉ dành cho bản thân mình. Tác giả muốn thể hiện sự cống hiến lớn lao mà Bác Hồ đã hi sinh của đất nước. Và sự hi sinh ấy đã giúp cho cả dân tộc được sống trong hòa bình.

Có lẽ đây là khổ thơ đắt giá nhất bài thơ. Cả khổ thơ là sự ca ngợi công ơn của Bác, đó cũng là niềm cảm kích, niềm biết ơn vô bờ của tất cả mọi người dân Việt Nam dành cho Bác. Tiếp theo đây, nhà thơ lại tiếp tục cuộc hành trình vào viếng thăm lăng Bác. Và giờ đây, ông đã được gặp gỡ Người cha già mà mình hằng yêu quý, kính trọng:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Bác đang nằm ở đó, nhẹ nhàng thanh thản như đang chìm trong một giấc ngủ ngon. Cả cuộc đời Người chỉ có một niềm mong ước, đó là đất nước được hòa bình. Vậy nên giờ đây, khi đất nước được hòa bình, độc lập, Người đã được nghỉ ngơi trong giấc ngủ yên bình.

Cả cuộc đời Người đã cống hiến hết sức lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, vậy nên giờ đây, Người đang “nằm trong giấc ngủ yên bình”. Đối với nhà thơ hay với bất cứ ai, Bác như vừa mới đây năm xuống, thưởng cho mình một giấc ngủ ngon sau bao ngày vất vả, khuya sớm lo cho cuộc đấu tranh của nhân dân:

“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”

Một lần nữa, Viễn Phương đã phải sử dụng tới biện pháp nói giảm nói tránh để làm bớt đi không khí đau thương đang tràn ngập trong tâm hồn ông. Bác Hồ đang nằm đó, giữa một giấc ngủ bình yên hơn bao giờ hết, giữa một thứ ánh sáng nhẹ nhàng lan tỏa trong không gian.

Thứ ánh sáng đó có thể là một ngọn đèn ngủ dìu dịu được thắp trong lăng Bác. Nhưng cũng có thể nhà thơ đang muốn nói tới vầng trăng thiên nhiên – vầng trăng mà Bác Hồ yêu thích nhất. Có thể thấy, thơ của Người luôn tràn ngập hình ảnh của trăng. Ví dụ như:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”

Hay:

“Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”

Có lẽ ở đây, tác giả không chỉ đơn giản là muốn nói tới ngọn đèn trong lăng Bác mà còn muốn nói tới vầng trăng thiên nhiên ngoài kia. Bởi sinh thời, Bác Hồ là người yêu trăng hơn bao giờ hết. Giờ đây khi được bước sang một thế giới khác, yên bình hơn, Người muốn được hòa mình cùng với vầng trăng của thiên nhiên, luôn luôn sáng tỏ, đẹp đẽ, trường tồn cùng thời gian như lý tưởng của Người vậy. Và tiếp theo, sau bao nhiêu sự kìm nén, nhà thơ đã phải bật lên tiếng nấc nghẹn ngào:

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Một lời trách cứ mới đau đớn làm sao! Lời trách cứ ấy là lời trách trời xanh kia. Bầu trời thì vẫn vậy, bao năm tháng vẫn xanh một màu trường tồn vĩnh cửu, vậy mà vị Cha già của dân tộc sao đã phải ra đi? Vẫn biết quy luật sinh tử của tạo hóa nhưng vẫn thấy xót xa, đau đớn vô cùng. Dù lý trí luôn tỏ tường rằng quy luật của thiên nhiên là bất biến, nhưng nhà thơ vẫn “nghe nhói ở trong tim”.

Nỗi đau xót nghẹn ngào ấy đã trở thành lời trách cứ đối với trời xanh. Và cảm giác “nghe nhói” khiến người đọc cũng như đồng cảm được một phần nào đó cảm giác đau xót, quặn thắt tim gan mà tác giả muốn biểu đạt. Thứ cảm xúc ấy dồn nén tới mọi giác quan trên cơ thể con người.

Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến hồi chia ly và cuộc viếng thăm của Viễn Phương với Hồ Chủ tịch cũng vậy. Đến khi phải nói lời từ biệt, nhà thơ đã vô cùng xúc động. Sự xúc động ấy cùng với nỗi niềm đau xót kìm nén từ ban đầu đã bật thành một tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Ngày mai, con phải rời xa Cha, rời xa vị Cha già kính mến để trở lại miền Nam xa xôi, biết bao giờ mới có dịp được thăm lại Người. Chính vì thế, nhà thơ đã bật lên tiếng nức nở. Bao nhiêu nỗi đau xót, nghẹn ngào cứ thế tuôn theo dòng lệ trào. Chính lúc này, trong tâm nhà thơ chợt hiện lên một ước nguyện:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Điệp từ “muốn” lặp lại ba lần như khẳng định lại ước muốn của nhà thơ. Đó là một ước muốn mãnh liệt, niềm khao khát cháy bỏng của nhà thơ. Ước nguyện đó là được ở lại bên cạnh Người – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, chỉ để làm “một con chim hót”, “một đóa hoa”, “một cây tre trung hiếu”. Tất cả chỉ đều là những vật vô cùng nhỏ bé, tầm thường, nhưng lại là mong ước của tác giả.

Bởi vì chim hót sẽ ru thêm giấc ngủ ngon cho Người, hoa sẽ tỏa ngát hương thơm và một cây tre nhỏ mãi trung hiếu với nơi đây. Nhịp thơ ở đây chậm đi một nhịp so với các khổ thơ trước. Sự chậm rãi ấy như muốn kéo dài thêm giây phút sắp phải chia xa. Kết lại bài thơ, hình ảnh cây tre lại một lần nữa xuất hiện như một vòng lặp tuần hoàn.

Cây tre là biểu tượng của con người Việt Nam, biểu tượng cho ý chí và sức mạnh của dân tộc. Tác giả muốn ở lại bên lăng Hồ Chủ Tịch trở thành một cây tre trung thành với Bác, với lý tưởng mà Người đã chỉ lối. Qua đó, nhà thơ càng muốn khẳng định một điều, đó là sự tin tưởng, sự trung thành của mỗi người dân Việt Nam vào Bác, vào lý tưởng và chân lý mà Bác đem tới cho chúng ta.

Cả khổ thơ đã thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của tác giả, cũng chính là mong ước của mỗi người dân Việt Nam. Đó là luôn luôn được ở cạnh Người, ở cạnh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc cũng từ đó, thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào Bác và lý tưởng mà Bác đã gây dựng.

  • Kết bài:

Với những hình ảnh ẩn dụ tinh tế, giàu tính thẩm mĩ và các biện pháp tu từ đặc sắc… bài thơ đã thể hiện tình cảm chân thành, thiết tha và sâu sắc của nhà thơ cũng như của đồng bảo miền Nam đối với Bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.


Tham khảo 2:

  • Mở bài:

Tình cảm của nhân dân với Hồ Chí Minh đặc biệt như thế nào, điều này không mới. Riêng, trong thơ, ta đã cảm nhận được ở Tố Hữu, Minh Huệ,… và lần này thì ở Viễn Phương. Thơ Viễn Phương có một phong cách độc đáo: vừa giàu chất liệu tâm trạng vừa giàu chất suy tưởng, vừa hiện thực vừa trữ tình, vừa hồn nhiên vừa mơ mộng… nghĩa là những cung bậc khác nhau, pha trộn vào nhau. Sự đa dạng này phản ánh tính phong phú của đối tượng được tái hiện ở trong thơ. Hồ Chí Minh vừa lớn lao vừa bình dị biết nhường nào. Vì thế, nhà thơ dường như không thể nào làm khác. Mạch cảm hứng toàn bài dựa trên trục thời gian hình thành một thứ nhật kí, một cuộc viếng thăm cũng là một cuộc hành hương về nơi cội nguồn.

  • Thân bài:

Khổ đầu của bài thơ – cảm nhận đầu tiên là cái bỡ ngỡ, vừa lạ vừa quen:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.

Câu thơ không nói gì nhiều, nhưng vì sao đọc lên nghe cứ rưng rưng. Miền Nam là mảnh đất cha ông xưa đi mở cõi, trong chiến tranh là mảnh đất “đi trước về sau” muôn vàn gian khổ. Trong hai cuộc chiến tranh giữ nước, miền Nam là một bức thành đồng. Nửa thế kỉ chiến đấu và hi sinh phải chăng không ngoài mục tiêu duy nhất : đất nước độc lập, Nam Bắc một nhà. Khát khao đầy tính chất ngưỡng vọng ấy là gì, nếu không phải là hướng về đất Bắc, trái tim của cả nước. Vì vậy, khi đã đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng, cảm xúc của nhà thơ – đại diện cho những đứa con ở xa không khỏi ngỡ ngàng như bước vào một giấc mơ tướng chừng không có thực. Câu thơ thật vui mừng khôn xiết lại vừa thật xót xa. Một cái gì như kìm nén bỗng oà ra tức tưởi. Hai mảnh đất, hai địa đầu đất nước đã được nối liền bằng cuộc hành hương. Hình ảnh nhà thơ gặp gỡ đầu tiên khi ra thăm lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là hàng tre quen thuộc đến nao lòng. Một chữ “đã” trong câu “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”. “Đã” là cái cử chỉ thân yêu, một hành động “tay bắt mặt mừng” vỗi vã dù được thực hiện bằng mộtthứ tiếng nói vô ngôn. Chất suy tưởng trong thơ từ cảm xúc rất thực này mà cất cánh:

Ôi ! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Một từ cảm thán đứng đầu câu đã mỡ ra bao tầng cảm nghĩ. Màu xanh của tre, trúc chi là một chuyện thường tình, nhưng một linh hồn Việt Nam, một cốt cách Việt Nam đã in trọn vẹn dấu ấn của mình vào đó. Đằng sau cái sương khói mơ hồ thực ảo (trong sương) thấp thoáng một dáng đứng Việt Nam, một dáng dứng của bốn nghìn năm dựng nước “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Bển bỉ, dẻo dai, vĩnh hằng bất biến là những phẩm chất riêng chỉ dân tộc này mới có ? Không khí của bài thơ được tạo ra bởi một nét cảm động mà bâng khuâng, xao xuyến tận dáy lòng. Phải là những con người bất khuất, trung kiên vào sống ra chết như thế nào trong cuộc tử sinh dữ dội mới có thể xúc động trước một hàng tre mà những kẻ vô tâm ít người để ý.

Hai khổ thơ tiếp theo – phần chính của bài là sự bàng hoàng chiêm ngưỡng : Hồ Chí Minh vĩ đại mà giản dị đến không ngờ. vé sự vĩ đại của Người, có thể so sánh với trăng sao, nghĩa là thuộc về vũ trụ. Nhưng cái sáng mà trăng sao toả ra không đủ sức ấm cho sự sống muôn loài mà phải là ánh sáng của mặt trời. Và tứ thơ bỗng nhiên, bất ngờ xuất hiện, xuất hiện rất kịp thời phù hợp với cảm nghĩ của nhà thơ:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

Phép đối (ở đây là đối xứng) tưởng như đã cũ, nhưng ở trong văn cảnh này, không còn một cách nói nào thích hợp hơn. Vũ trụ có mặt trời, dân tộc ta cũng có một mặt trời riêng là Hồ Chí Minh. Sự tương xứng và song hành trong thực tế và trong tâm tưởng đã diễn ra cùng một lúc. Hồ Chí Minh vĩ đại biết bao nhiêu, làm cách nào có khả năng nói hết ?. Tuy thế, cũng có sự khác nhau : cái vĩnh hằng của mặt trời thiên nhiên là im lặng, vô hồn, còn cái vĩnh cửu của “măt trời trong lăng” thuộc về con người, thuộc về sự sống. Giữa những con người này, sự sống này, một chân lí đang được chứng minh : sự trường tồn của một cá thể trong cái hữu hạn nhân sinh là “bảy mươi chín mùa xuân” ngắn ngủi. Khổ thơ nói về “mặt trời trong lăng”, câu thơ có ý nghĩa triết học sâu xa: Những hào kiệt, anh linh không thể chết nếu lấy tiêu chí vể sự bất tử của linh hồn.

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ,
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…

Bảy mươi chín tuổi của Hồ Chí Minh là “bảy mươi chín mùa xuân”, và cuộc đời quanh Người, cũng là những tràng hoa, nghĩa là một mùa xuân ríu rít quây quần. Nghĩa hẹp và nghĩa rộng của hình tượng thơ cứ hồn nhiên lan toả bới hương vị đầm ấm ngọt ngào nhằm tôn vinh một con người mà giờ đây đã trờ thành lất cả. Bác là tất cả, nhưng Bác cũng là một con người binh thường như tất cả chúng ta:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trâng sáng dịu hiền.

Gam màu của mạch thơ từ chói lọi, rực rỡ ớ khổ thơ trên đã chuyển hướng, trở nên dịu dàng mềm mại ở khổ sau, mở ra một tầng cảm nghĩ mới. Người gắn bó với thiên nhiên, nhất là với trăng thì giờ đây trăng vẫn chung thuỷ với Người. Ý thơ của Viễn Phương gợi nhớ đến bao nhiêu câu thơ rất đẹp về trăng của Hồ Chí Minh : “Tiếng suối trong như tiếng hát xa / Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”… Hồ Chí Minh giờ đã đi xa, trăng bầu bạn, chung thuỷ vỗ về. Nhưng ngay sau đó một ý nghĩ cảm thương xuất hiện :

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim !

Ở đây tồn tại một nghịch lí: Hồ Chí Minh trong lịch sử dân tộc ta, với nhân dân ta vốn là vĩ đại. Nhưng ngay khi trở thành vĩ đại, Hồ Chí Minh vẫn là một con người bình thường, nghĩa là cũng có một số phận riêng. Cảm giác “nghe nhói ở trong tim” của Viễn Phương là cảm giác rất thực với tư cách giữa con người với con người, nghĩa là bình đẳng như nhau trước lượng trời hạn hẹp. Điều đó nói lên Hồ Chí Minh dù vĩ đại, Hồ Chí Minh vẫn là con người. Và chính vì là con người, Hồ Chí Minh càng trở nên vĩ đại.

Khổ cuối của bài thơ, về hình tượng có sự đối ứng với khổ thơ đầu:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Cảm xúc của nhà thơ khi trở lại miền Nam đối với Bác vô cùng chân thành và xúc động Mai về miền Nam thương trào nước mắt. Câu thơ như bộc lộ rất chân thành nỗi xót thương vô hạn bị kèm nén cho tới phút chia tay và tuôn thành dòng lệ. Hai địa danh (miền Nam) và hai hình ảnh (cây tre) được lặp lại nhằm hoàn tất một cuộc hành hương, nhưng ý nghĩa tinh thần thì đã khác. Trở về nơi đã ra đi, từ nơi vừa đến là nước mắt tràn ngập hàng mi (thương trào nước mắt) và hàng tre gặp gỡ đã nâng cấp thành một biểu trưng về tính cách, về nhân phẩm con người, thành “cây tre trung hiếu”.

Trong cảm xúc nghẹn ngào, tâm trạng lưu luyến ấy, nhà thơ như muốn được hoá thân để mãi mãi bên Người. Điệp ngữ “muốn làm” được nhắc tới ba lần cùng với các hình ảnh liên tiếp con chim, đoá hoa, cây tre như để nói lên ước nguyện tha thiết của nhà thơ muốn là Bác yên lòng, muốn đền đáp công ơn trời biển của Người. Nguyện ước của nhà thơ vừa chân thành, sâu sắc đó cũng chính là những cảm xúc của hàng triệu con người miền Nam trước khi rời lăng Bác sau những lần đến thăm người.

Giọng thơ trầm lắng xuống, nhưng nguyện vọng rất thiết tha lại nghèn nghẹn không nói nên lời đang cất lên cái tiếng nói vô thanh của nó. Mà cái nguyện vọng kia mới khiêm nhường, nhỏ bé biết chừng nào ? Một giọng chim ca, một đoá hoa lặng lẽ toả hương nghĩa là giống như lúc Hồ Chí Minh sinh thời “Xem sách chim rừng vào cửa đậu / Phê văn hoa núi ghé nghiên soi” (Tặng cụ Bùi Bằng Đoàn). Sự thành kính đến nghiêm trang đầy xúc động của nhà thơ một lần nữa nhằm tôn vinh một con người mà linh hồn như còn phảng phất nơi đây trong sương, trong nắng. Đồng thời nó cũng làm nhiệm vụ hoàn tất bài thơ với niềm tiếc thương và kính yêu vô hạn.

  • Kết bài:

Với giọng điệu trang trọng, chậm rãi cùng việc sử dụng các hình ảnh ẩn dụ, bài thơ “Viếng lăng Bác” đã thể hiện những tình cảm chân thành của nhà thơ đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Những cảm xúc đau xót, thương nhớ của tác giả cũng là cảm xúc của tất cả mọi người dân Việt Nam khi Bác đi xa. Có thể nói bài thơ là một thứ tiếng lòng giản dị, hồn nhiên mà âm vang của nó còn làm thổn thức lòng người mãi mãi.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang