phan-tich-bai-tho-doan-thuyen-danh-ca-huy-can

Dàn bài phân tích bài thơ ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ (Huy Cận)

Dàn bài phân tích bài thơ “ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ” (Huy Cận).

Dàn bài 1:

I. Mở bài:

– Huy Cận (1919-2005), là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới và là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho nền thơ hiện đại Việt Nam.

– Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại, dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958). Bài thơ khắc họa nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.

II.Thân bài:

– Mạch cảm xúc trong bài thơ vận động theo trình tự thời gian: Mở đầu là cảnh hoàng hôn trên biển và đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Tiếp đến là cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng. Khép lại bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong ánh bình minh rực rỡ.

1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi:

– Cảnh biển về đêm:

+ So sánh: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” → Biển đẹp rực rỡ.

+ Nhân hóa: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa” → Vũ trụ như ngôi nhà lớn, gần gũi.

– Hình ảnh người lao động.

+ Dùng từ: “lại” → Công việc thường xuyên.

+ Sự gắn kết ba sự vật: “cánh buồm, gió khơi, câu hát” Hình ảnh khỏe, lạ.

+ Đối lập, tương phản: sự nghỉ ngơi của vũ trụ – con người lại ra khơi.

Niềm vui, sự phấn chấn của người lao động như có sức mạnh vật chất, góp với sức gió, giúp con thuyền ra khơi nhanh hơn.

2. Cảnh đánh cá trên biển.

Vẻ đẹp của cảnh đánh cá trên biển giữa biển đêm trong niềm vui phơi phới, khỏe khoắn của người lao động làm chủ công việc của mình.

– Con thuyền trở nên kì vĩ, khổng lồ, hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ: “Lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng, dò bụng biển, dàn đan thế trận, …”

– Niềm vui, sự lạc quan trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên: “Ta hát bài ca gọi cá vào, …”

– Không khí lao động khẩn trương: “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng / Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”.

Niềm say sưa, hào hứng và những ước mơ bay bổng của con người muốn hòa hợp với thiên nhiên và chinh phục thiên nhiên bằng công việc lao động của mình.

3. Hình ảnh đoàn thuyền trở về.

– Lặp lại hình ảnh ba sự vật: “cánh buồm, gió khơi, câu hát”  Niềm vui, sự phấn chấn khi đánh cá trở về.

– Nhân hóa: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”  Sự khẩn trương của người lao động. Thề hiện tầm vóc, vị thế kì vĩ của người lao động.

– Nhân hóa: “Mặt trời đội biển nhô màu mới / Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.

Ca ngợi thành quả lao động , niềm tin vào tương lai.

4. Đặc sắc nghệ thuật:

– Xây dựng hình ảnh thơ bằng sự liên tưởng tưởng tượng.

– Âm điệu khỏe khoắn, lạc quan, yêu đời.

III. Kết bài:

– Bài thơ khắc họa nhiều hình ảnh đẹp thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.

– Bài thơ thể hiện nguồn cảm hứng lãng mạn ngợi ca biển cả lớn lao, giàu đẹp, ngợi ca nhiệt tình lao động ví sự giàu đẹp của đất nước của những người lao động mới. Ca ngợi con người lao động biển.


Dàn bài 2:

Dàn bài phân tích chi tiết bài thơ “ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ” (Huy Cận).

I. Mở bài:

– Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới. Sau cách mạng, thơ Huy Cận tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống mới. Thiên nhiên vũ trụ là nguồn cảm hứng dồi dào trong thơ Huy Cận và nó mang những nét đẹp riêng.

– Một trong những bài thơ được nhiều người yêu thích nhất là bài “Đoàn thuyền đánh cá” được viết năm 1958 tại vùng biển Quảng Ninh. Với bút pháp lãng mạn kết hợp hiện thực và nhiều hình ảnh kì vĩ, tráng lệ ,bài thơ đã ca ngợi thiên nhiên vũ trụ và con người lao động trong cuộc sống mới ở miền Bắc thời kỳ xây dụng chủ nghĩa xã hội.

II. Thân bài:

1. Cảnh đoàn thuyền ra khơi và tâm trạng náo nức của con người.

a. Cảnh hoàng hôn trên biển.

– Cảnh mặt trời lặn được miêu tả thật độc đáo và ấn tượng:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”

– Nghệ thuật so sánh nhân hóa cho thấy cảnh biển hoàng hôn vô cùng tráng lệ, hùng vĩ. “Mặt trời” được ví như một hòn lử khổng lồ đang từ từ lặn xuống. Trong hình ảnh liên tưởng này, vũ trụ như một ngôi nhà lớn, với đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ, những lượn sóng là then cửa.

– Chi tiết “Mặt trời xuống biển” có thể gây ra sự thắc mắc của người đọc vì bài thơ tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ở vùng biển miền Bắc, mà ở bờ biển nước ta, trừ vùng Tây Nam thường chỉ thấy cảnh mặt trời mọc trên biển chứ không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Thực ra hình ảnh mặt trời xuống biển là được nhìn từ trên con thuyền đang ra biển hoặc từ một hòn đảo vào lúc hoàng hôn, nhìn về phía tây, qua một khoảng biển thì vẫn có thể thấy như là mặt trời xuống biển. Với sự quan sát tinh tế nhà thơ đã miêu tả rất thực chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm.

b. Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu làm việc:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi”.

– “Đoàn thuyền” chứ không phải chỉ con thuyền ra khơi đã tạo ra sự tấp nập trên biển. Chữ “Lại” vừa khẳng định nhịp điệu lao động của người dân chài đã đi vào ổn định, vừa thể hiện sự đối lập giữa sự nghỉ ngơi của đất trời và sự làm việc của con người.

– Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe, lạ mà thật từ sự gắn kết 3 sự vật và hiện tượng: Câu hát, cánh buồm và gió khơi. Người đánh cá căng buồm và cất câu hát lên nhà thơ có cảm giác như chính câu hát đó đã làm căng cánh buồm. Câu hát mang theo niềm vui, sự phấn chấn của người lao động trở thành sức mạnh cùng với gió biển làm căng cánh buồm để con thuyền lướt sóng ra khơi.

– Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh thơ lãng mạn này đã góp phần thể hiện một hiện thực: Đó là niềm vui phơi phới, tinh thần lạc quan của người dân chài. Họ ra khơi trong tâm trạng đầy hứng khởi vì học tìm thấy niềm vui trong lao động, yêu biển và say mê với công việc chinh phục biển khơi làm giàu cho Tổ quốc. Cảnh ra khơi huy hoàng đầy khí thế hứa hẹn

2. Cảnh lao động trên biển trong đêm trăng:

– Niềm cảm hứng say sưa, bài ca lao động vui tươi, khỏe khoắn ngợi ca cảnh đánh cá trên biển.

+ Hình ảnh con thuyền lướt đi trên mặt biển bao la với cái nhìn của nhà thơ đã trở nên kì vĩ, lớn lao, sánh ngang tầm vũ trụ.

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”.

+ Con thuyền đặc biệt, có sự hòa quyện với tự nhiên, biển trời.

+ Con thuyền băng băng lướt sóng “giò bụng biển” – hình ảnh đẹp, kì ảo, diễn tả hoạt động đánh cá như một thế trận hào hùng → gợi ra sự khéo léo, tâm hồn phóng khoáng khi chinh phục biển cả.

– Cảm nhận về vẻ đẹp và sự đa dạng của các loài cá quý.

+ Tác giả liệt kê tên các loại cá ở biển như cá nhụ, cá chim, cá đé… những loại cá mang giá trị kinh tế.

+ Biển không chỉ giàu mà còn đẹp thơ mộng: màu sắc lấp lánh của muôn loài cá (lấp lánh, đen hồng, vàng chóe) tất cả tạo nên tổng thể bức tranh sơn mài tuyệt đẹp của tạo hóa.

+ Đêm ở biển được miêu tả sống động, mang hơi thở của cuộc sống (tiếng sóng nước hòa với nhịp gõ thuyền, hòa với sự khoáng đạt của trời cao biển rộng).

→ Như vậy tầm vóc của người và đoàn thuyền được nâng lên, hòa nhập vào kích thước của thiên nhiên, vũ trụ. Không còn cảm giác cô đơn, nhỏ bé của con người khi đối diện với trời rộng, sông dài trong thơ Huy Cận.

– Khúc hát vui tươi trong lao động được cất lên:

+ “Ta hát bài ca gọi cá vào”: gợi niềm vui, sự phấn chấn trong lao động.

+ “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”: gợi cảm nhận chất thơ bay bổng, lãng mạn.

→ Những hình ảnh lãng mạn, giàu chất thơ làm cho công việc vốn nặng nhọc, vất vả như nghề ra khơi trở nên rộn rã, thi vị hơn.

– Câu hát của người lao động còn mang theo niềm mong mỏi tha thiết vừa hiện thực vừa lãng mạn:

“Hát rằng : cá bạc biển đông lặng
………………………………..
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”

– Từ dáng cá hình thoi, nhà thơ liên tưởng đến biển như một tấm lụa lớn mà đoàn cá là “ đoàn thoi” đang vung vẩy qua lại. Người dân chài hát khúc hát ca ngợi sự giàu có của biển cả, họ hát bài ca gọi cá vào lưới và mong muốn công việc đánh cá thu được nhiều kết quả tốt đẹp.

3. Cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh lên.

a. Cảnh đoàn thuyền trở về:

– Câu đầu tác giả lặp lại ở khổ thơ 1: “Câu hát căng buồm với gió khơi”

+ Có từ “với” là khác, có lẽ tác giả tránh sự lặp lại ở câu thơ trước => làm cho khổ thơ cuối giống như điệp khúc của một bài hát, tạo cảm giác tuần hoàn về thời gian, về công việc lao động; nhấn mạnh khí thế tâm trạng của những người dân. Đoàn thuyền ra đi hào hứng sôi nổi, nay trở về cũng với tinh thần ấy rất khẩn trương. Câu hát đưa thuyền đi nay câu hát lại đưa thuyền về.

+ Bằng biện pháp khoa trương và hình ảnh nhân hóc” Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời:cho thấy con người và vũ trụ chạy đua trong cuốc vận hành vô tận, con người đã mang tầm vóc lớn lao của thiên nhiên vũ trụ trong cuộc chạy đua này và con người đã chiến thắng.Có thể nói Huy Cận đã lấy tình yêu của mình đối với cuộc sống mới của nhân dân khám phá ra vẻ đẹp hùng vĩ. Thay vào không gian vũ trụ buồn hiu hắt của thơ ông trước cách mạng tháng Tám.

b. Bình minh trên biển:

– Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn, kết thúc bài thơ là cảnh bình minh” Mặt trời đội biển nhô màu mới”. Ánh mặt trời sáng rực, từ từ nhô lên ở phía chân trời xa cảm giác như mặt trời đội biển. Câu thơ với ẩn dụ táo bạo cho thấy sự tuần hoàn của thời gian, của vũ trụ.

– Hình ảnh “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” gợi nhiều liên tưởng như những mặt trời nhỏ bé đang tỏa rạng niềm vui trước thành quả lao động mà con người đã giành được sau một đêm lao động trên biển. Đó là cảnh tượng đẹp huy hoàng giữa bầu tròi và mặt biển, giữa thiên nhiên và thành quả lao động.

4. Đặc sắc nghệ thuật:

– Bài thơ tạo được âm hưởng vừa khỏe khoắn sôi nổi lại vừa phơi phới, bay bổng. Góp phần tạo nên âm hưởng ấy là các yếu tố lời thơ, nhịp điệu, vần.

– Lời thơ dõng dạc, điệu thơ như khúc hát say mê, hào hứng, phơi phới (4 lần điệp từ “hát”).

– Cách gieo vần trong bài thơ biến hóa, linh hoạt, các vần trắc xen lẫn vần bằng, vần liền xen với vần cách. Các vần trắc tạo sức dội, sức mạnh, các vần bằng tạo sự vang xa, bay bổng, tạo nên những vần thơ khoáng đạt, kì vĩ, phơi phới niềm vui.

III. Kết bài:

– Bài thơ là những bức tranh đẹp, rộng lớn kế tiếp nhau về hình ảnh thiên nhiên và đoàn thuyền đánh cá. Thiên nhiên như một người bạn thân thiết, đồng hành cùng cuốc sống của con người. Hình ảnh người lao động trong bài thơ được sáng tạo với cảm hứng lãng mạn, thể hiện niềm tin, niềm vui trước cuộc sống mới. Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ hay, thể hiện rõ nét sự thay đổi của hồn thơ Huy Cận sau Cách Mạng.

Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang