doc-hieu-van-ban-khi-con-tu-hu-to-huu

Đọc hiểu văn bản: Khi con tu hú (Tố Hữu)

Đọc hiểu văn bản:

Khi con tu hú
(Tố Hữu)

I. Đọc – hiểu chú thích:

1. Tác giả:

– Tố Hữu (1906 – 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê quán: Thừa Thiên Huế. Ông là một trong những nhà thơ cách mạng lớn nhất của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Thơ ông mang tính chất trữ tình chính trị có cảm hứng lãng mạn ngọt ngào.

2. Tác phẩm:

– Hoàn cảnh sáng tác: Sáng tác vào tháng 7 năm 1939 tại nhà lao Thừa Phủ, khi tác giả bị bắt giam.

– Bố cục gồm 2 phần:

+ Phần 1: 6 câu đầu: Khung cảnh thiên nhiên vào hè

+ Phần 2: 4 câu cuối: Tâm trạng người chiến sĩ trong tù

– Nội dung: Bài thơ thể hiện niềm tin yêu cuộc sống thiết tha và sự khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ trong cảnh tù đầy.

II. Đọc – hiểu văn bản:

1. Bức tranh đất trời vào hè:

– Cảnh đất trời vào hè với nhiều âm thanh: Tiếng chim tu hú, tiếng ve ngân;  tiếng sáo diều

⇒ Âm thanh rộn rã, tươi vui

– Bên cạnh đó có nhiều màu sắc: vàng: Bắp, lúa;  xanh: Trời; hồng: nắng ⇒ Màu sắc tươi tắn, rực rỡ

– Nhiều hương vị: Vị lúa chín, vị ngọt của trái cây ⇒ Những hương vị hết sức ngọt ngào tinh khiết

– Không gian: đất trời cao rộng, cánh diều chao liệng ⇒ Sự khoáng đạt đầy tự do

– Kết hợp biện pháp tu từ cùng với những tính từ, từ láy ⇒ bức tranh trong tâm tưởng về mùa hè tươi đẹp của người chiến sĩ trong cảnh tù đày.

⇒ Cảnh ngày hè được dựng lên thật sống động với đầy âm thanh, sắc màu, không gian, hình ảnh rực rỡ. Tất cả chúng đều chân thực, hết sức đẹp đẽ, tươi mới, thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết của nhà thơ và cái nhìn tinh tế khi nhận ra sự chuyển mình của thời gian.

2. Khát vọng của người tù cách mạng:

– Cuồng nhiệt với cuộc sống: “nghe hè dậy bên lòng”.

– Muốn vượt thoát ra bên ngoài: “muốn đạp tan phòng.

⇒ Nghệ thuật tương phản cho thấy sự đối lập giữa cảnh đất trời bao la và cảnh tù đầy, người chiến sĩ khao khát tự do cháy bỏng, muốn đập tan mọi thứ để thoát khỏi cảnh tù túng.

Truyền đến cho người đọc cảm giác ngột ngạt tới cao độ của nhà thơ và khát khao cháy bỏng được trở về với tự do, với đồng đội.

III. Tổng kết:

Nội dung: Bài thơ thể hiện niềm tin yêu cuộc sống thiết tha và sự khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ trong cảnh tù đày.

Nghệ thuật: Thể thơ lục bát sử dụng uyển chuyển, giọng điệu linh hoạt, từ ngữ tự nhiên và gần gũi với đời thường.


Trả lời câu hỏi SGK:

Trả lời câu 1 (trang 20 SGK): Nên hiểu nhan đề bài thơ như thế nào? Hãy viết một câu văn có bốn chữ đầu là “Khi con tu hú” để tóm tắt nội dung bài thơ. Vì sao tiếng tu hú kêu lại tác động mạnh mẽ đến tâm hồn nhà thơ như vậy?

Trả lời:

– Nhan đề của bài chỉ là một cụm từ chỉ thời gian (vẫn chưa đầy đủ). Nhan đề của bài thơ là một ẩn ý vừa chỉ một thời điểm bừng lên của thiên nhiên, tạo vật, vừa chỉ sự khát khao hoạt động của con người.

– Có thể tóm tắt nội dung bài thơ như sau: Khi con tu hú gọi bầy (cũng là khi mùa hè đang đến), người tù cách mạng càng thấy ngột ngạt, cô đơn trong phòng giam chật hẹp, càng khát khao được sống cuộc sống tự do bay bổng ở ngoài kia.

– Sở dĩ, tiếng tu hú kêu lại có tác động mạnh đến tâm hồn của nhà thơ bởi, nó là tín hệu báo những ngày hè rực rỡ đến gần. Nó cũng là biểu tượng của sự bay nhảy tự do.

Trả lời câu 2 (trang 20 SGK): Nhận xét về cảnh mùa hè được miêu tả trong 6 câu thơ đầu. Những chi tiết nào khiến em có nhận xét đó?

Trả lời:

– Mới đọc bài thơ chúng ta không biết người thơ đang ở trong tù:

Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần.

– Không phải tiếng chim đơn độc mà là tiếng chim “gọi bầy”, tiếng chim báo tin vui. Nghe chim tu hú gọi nhau biết rằng “lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”. Nhưng không phải chỉ có thế. Tiếng chim gợi lên một thế giới tràn ngập âm thanh, màu sắc, hình ảnh:

Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…

– Đó là những sắc màu, âm thanh của cuộc sống hằng ngày. Màu vàng của ngô, màu hồng của nắng nổi bật trên cái nền xanh của đất trời, quyện với tiếng ve ngân và còn được điểm xuyết thêm bằng hình ảnh “Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Không gian tràn trề nhựa sống, đang vận động, sinh sôi nảy nở từng ngày.

– Đọc kĩ lại những câu thơ, ta bỗng phát hiện thêm nhiều điều kì lạ khác nữa. Các sự việc không được miêu tả trong trạng thái bình thường, chúng được tô đậm, được đẩy lên mức cao nhất có thể. Không phải “hạt bắp vàng” mà là “bắp rây vàng hạt” nắng là “nắng đào” màu sắc lộng lẫy nhất, trời xanh thì “càng rộng càng cao” tầm mắt cứ được mở rộng ra thêm mãi. Tiếng ve không chỉ “ngân” mà còn “dậy” lên, hai tính từ miêu tả âm thanh kết hợp với nhau khiến cho tiếng ve rộn rã khác thường. Chừng như để hoà điệu với những âm thanh và hình ảnh đó, cách diều sáo cũng không chịu “lững lờ” hay “vi vu” mà “lộn nhào từng không” Cánh diều như cũng nô nức, vui lây trong không gian lộng lẫy màu sắc và rộn rã âm thanh đó.

– Sở dĩ có hiện tượng đó là bởi tác giả đã không trực tiếp quan sát và miêu tả cảnh vật. Nhà thơ đang bị giam trong tù. Những bức tường kín mít vây xung quanh làm sao cho phép nhà thơ nhìn ngắm hay lắng nghe… Tất cả đều được tái hiện từ trí tưởng tượng, trí nhớ và hơn thế nữa là tình yêu, lòng khát khao mãnh liệt được tháo cũi sổ lồng. Trong cảnh tù đày, màu ngô lúa hay màu nắng, màu của trời xanh bỗng trở nên quý giá vô ngần, bởi thế nên những màu sắc, âm thanh hết sức bình thường bỗng trở nên lung linh, huyền ảo, rực rỡ hẳn lên. Đoạn thơ này thể hiện tình yêu sâu sắc của nhà thơ đối với cuộc sống, đối với quê hương.

Trả lời câu 3 (trang 20 SGK): Phân tích tâm trạng người tù – chiến sĩ được thể hiện ở 4 câu thơ cuối. Mở đầu và kết thúc bài thơ đều có tiếng tu hú kêu, nhưng tâm trạng của người tù khi nghe tiếng tu hú thể hiện ở đoạn thơ đầu và đoạn cuối rất khác nhau, vì sao?

Trả lời:

– Mộng tưởng càng tươi đẹp bao nhiêu thì hiện thực lại càng cay đắng, nghiệt ngã bấy nhiêu.

Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!

– Tưởng như sự liên kết giữa hai đoạn thơ này không thật chặt chẽ và tứ thơ không liên tục. Khi hướng ra bên ngoài, nhà thơ tả cảnh nhưng khi hướng vào trong lại tả tâm trạng. Kì thực đây chính là sự liên kết vô cùng khéo léo và tinh tế. Mối dây liên kết ấy chính là tiếng chim tu hú. Tiếng chim gọi bầy tha thiết gợi mở một thế giới bao la và vô cùng sinh động. Nhưng thế giới đó càng rộng rãi, rực rỡ bao nhiêu thì lại càng khiến cho người tù (đã bị tách biệt khỏi thế giới ấy) cảm thấy ngột ngạt và khao khát bấy nhiêu.

– Tiếng chim tu hú ở đầu và cuối của bài thơ tuy đều biểu trưng cho tiếng gọi tha thiết của tự do, của cuộc sống ngoài kia đầy quyến rũ đối với người tù nhưng tâm trạng của người tù khi nghe tiếng tu hú lại rất khác nhau. Ở câu thơ đầu, tiếng tu hú gợi hình ảnh cuộc sống đầy hương sắc, từ đó gợi ra cái khát khao về cuộc sống tự do. Thế nhưng, đến câu kết, tiếng chim ấy lại khiến cho người tù có cảm giác bực bội, đau khổ vì chưa thể thoát ra khỏi cảnh tù đầy.

Trả lời câu 4 (trang 20 SGK): Theo em, cái hay của bài thơ được thể hiện nổi bật ở những điểm nào?

Trả lời:

Bài thơ hay ở những hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mà giàu sức gợi cảm, ở nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát uyển chuyển, tự nhiên và cả ở những cảm xúc thiết tha, sâu lắng, thể hiện được nguồn sống sục sôi của người cộng sản.


Tham khảo:

Cảm nhận ý nghĩa nội dung bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu

Bài thơ “Khi con tu hú” được nhà thơ sáng tác trên con đường hoạt động cách mạng và bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ – Huế. Tiếng chim tu hú đã phá tan song sắt, len lỏi vào trong tâm hồn làm thức tỉnh con người:

“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”

Tu hú đến mang theo mùa hè với biết bao hương sắc, Tố Hữu cảm nhận được lúa chiêm đang chín khiến cho hình ảnh những cánh đồng lúa chín vàng như hiện lên trước mắt chúng ta. Tiếng chim tu hú đã làm bừng tỉnh một góc tăm tối trong tâm hồn thi nhân với khao khát được hòa hợp cùng thiên nhiên đến mãnh liệt. Không chỉ thế, nhà thơ còn ngửi thấy những hương thơm thoang thoảng của hoa quả chín dần tác động vào khứu giác. Có lẽ, nhà thơ cảm nhận được thời gian trôi đi thật nhanh và muốn níu giữ những hương thơm của đất trời nên đã viết rằng “đang chín” và “ngọt dần” chứ không phải đã chín và đã ngọt.

Trong bức tranh thiên nhiên ấy không chỉ có âm thanh của tiếng chim tu hú, màu vàng của lúa chín, hương vị của trái cây ngọt dần mà còn có cả âm thanh của tiếng ve, tiếng sáo diều đang tự do bay lượn trên bầu trời xanh thẳm và màu vàng của những sân ngô pha thêm chút màu hồng của nắng đào:

“Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…”

Tiếng ve ngân vang trong vòm lá đưa ta trở lại những hồi ức của một thời cắp sách đến trường. Qua trí tưởng tượng củaTố Hữu, người đọc như được tận mắt chứng kiến một bức tranh thiên nhiên vùng quê đầm ấm và tươi vui. Điểm nhìn của nhà thơ được mở rộng ra những sân “bắp rây vàng hạt” hoà quyện cùng những tia nắng chói chang của mùa hạ. Có lẽ màu hồng của những tia nắng chính là cái nhìn tích cực của nhà thơ về thế giới bên ngoài với một khao khát được tự do trong một ngày gần nhất. Ở dưới mặt đất có những sân ngô vàng hạt thì trên bầu trời xanh thẳm kia có những con diều sáo đang tự do bay lượn.

Bằng ngòi bút tinh tế, nhà thơ đã tạo nên một tuyệt tác của mùa hè đầy sinh động và vui tươi. Tố Hữu đã sử dụng thể thơ lục bát, một thể thơ quen thuộc trong dân gian để phác hoạ thành công bức tranh thiên nhiên ấy. Đặc biệt, phép liệt kê được sử dụng một cách nhuần nhuyễn tạo cho người đọc những ấn tượng khó quên về một mùa hè tràn đầy hương sắc. Chắc hẳn nhà thơ phải rất yêu thiên nhiên, có một tình cảm đặc biệt với mảnh đất mình sinh ra nên mới có thể tạo ra bức tranh mùa hè đẹp đến vậy.

Bức tranh thiên nhiên về mùa hạ dưới đôi mắt của Tố Hữu không chỉ đẹp mà còn chứa đựng biết bao tâm sự:

“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao chết mất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu!”

Mạch thơ từ nhung nhớ những âm vang của mùa hạ nay chuyển sang những uất ức vì bị giam cầm. Mùa hè đến đem theo bao mong ước, hoài niệm như muốn thôi thúc người thanh niên ấy phá tan song sắt, “đập tan phòng” để đổi lấy tự do. Nhà thơ nghe ngoài trời “hè dậy bên lòng” mà không khỏi bứt rứt chân tay. Dòng máu của lòng uất hận đang trào dâng trong cơ thể khiến ông muốn thoát khỏi không gian tù túng chật hẹp ấy để được lao ra ngoài hòa mình vào thiên nhiên rộng lớn.

Ngoại cảnh đã tác động khiến nhà thơ cảm thấy bức bối, ngột ngạt, muốn lao ra thế giới bên ngoài nhưng lại bị những song sắt của nhà tù thực dân kìm hãm đành thốt lên thành lời than: “Ngột làm sao chết mất thôi”

Khao khát tự do của Tố Hữu ngày càng trở nên mãnh liệt bởi ông muốn cống hiến cho cách mạng, muốn tiếp tục con đường cách mạng của mình. Nhà thơ đã sử dụng các động từ mạnh “đạp”, “ngột”, “chết” và dấu chấm than cuối câu thơ để bộc lộ những dòng cảm xúc phẫn uất đang trực trào. Biết làm sao khi ta đang bị giam cầm mà con chim tu hú ở ngoài trời vẫn cứ kêu. Phải chăng nhà thơ cảm nhận được đó là tiếng gọi của cách mạng đang giục giã nhà thơ lên đường kháng chiến cứu nước. Tiếng chim tu hú gọi bầy trước không gian to lớn mênh mông đã tạo nên sự đối lập trong tâm hồn nhà thơ khi nhà thơ đang bị giam cầm không thể ra ngoài để hoạt động cách mạng. Nếu tiếng chim tu hú ở phần đầu báo hiệu mùa hè tới với biết bao tươi vui thì tiếng chim tu hú ở cuối bài lại khiến nhà thơ cảm thấy khó chịu và ngột ngạt. Nhà thơ muốn thoát li khỏi chốn lao tù nhưng hiện thực nghiệt ngã khiến cho tâm trạng nhà thơ càng trở nên bực dọc, khó chịu hơn. Thế nhưng dù có phải chịu cảnh tù đày nhà thơ vẫn không nản chí sờn lòng, trong bài thơ “Trăng tối” nhà thơ đã viết:

“Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày”

Bởi vậy, dù con đường cách mạng có khó khăn đến đâu thì nhà thơ cũng sẽ đương đầu và hoàn thành tốt các nhiệm vụ.

Bài thơ “Khi con tu hú” đã khép lại nhưng tiếng chim tu hú vẫn vang vọng mãi trong tâm hồn nhà thơ. Qua bức tranh thiên nhiên tràn đầy hương sắc được cảm nhận bằng nhiều giác quan đã giúp Tố Hữu giãi bày được những uất ức trong lòng mình. Với cách sử dụng ngôn từ giản dị nhưng có tính tạo hình cao đã khẳng định tài năng nghệ thuật của nhà thơ. Người nghệ sĩ không chỉ cầm bút để đánh giặc mà còn có thể cầm súng ra chiến trường. Phân tích hình ảnh người tù cách mạng trong bài thơ Khi con tu hú, ta thấy họ có một niềm khao khát tự do đến cháy bỏng, khát khao được đứng trong hàng ngũ của Đảng để mang sức mình phục vụ cách mạng.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang