dong-vai-nhan-vat-be-dan

Đóng vai nhân vật Trương Sinh kể lại câu chuyện thương tâm của gia đình

Đóng vai nhân vật Trương Sinh kể lại câu chuyện thương tâm của gia đình

Cha tôi mất sớm, tôi chỉ còn có mẹ già. Mẹ tôi sức yếu chưa biết gắng gượng được bao lâu. Ngày đêm bà mong mỏi tôi lập gia thất, sinh con đẻ cháu nối dõi tông đường, bà có khuất cũng thấy yên lòng. Thương mẹ, tôi cũng để ý đến việc tìm kiếm nàng dâu tốt cho mẹ.

Nghe tiếng làng bên có một người con gái tên là Vũ Thị Thiết, tính nết thuỳ mị, tức đức vẹn toàn khuôn phép chuẩn mực nên tôi bèn thưa mẹ cho cưới xin nàng ta. Tình cảm vợ chồng chưa đong đầy tình cảm được bao lâu thì lúc bấy giờ triều đình mới ban lệnh cho tuyển binh lính đi đánh Chiêm Thành. Tuy tôi là con nhà dòng nhưng không có học tên đã ghi trong sổ phải đi sung binh loạt đầu. Trước lúc lên đường, mẹ và vợ tiễn dưa lời tha thiết, mong mỏi tôi được bình an và sớm trở về. Tôi chẳng ham gì công danh nên thề hứa sẽ cản thận và trở về khi giặc dã đã dẹp yên, không vì công danh mà làm tổn hại bản thân.

Bấy giờ vợ tôi đương có mang, sau khi tương biệt vợ con được mươi ngày thì nàng đã hạ sinh một đứa bé trai và đặt tên là Đản. Thời gian cứ thế trôi đi một cách vô tâm và bình lặng , còn Trương Sinh tôi đang bế tắc trong nghịch cảnh của mình . Nửa năm qua tôi sống trong nỗi buồn tủi nhớ thương vợ và mẹ ở nhà đang ngóng trong chờ đợi tôi trờ về từng ngày, nghĩ đến mà lòng quặn thắt. Bất ngờ lúc ấy có người báo tin rằng mẹ tôi đã bệnh mà qua đời vì đã quá nhớ thương tôi mà đâm ra bệnh mà chết.

Bổn phận làm con chưa được vẹn toàn, chưa chăm sóc phụng dưỡng để đền trả công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ mà mẹ đã ra đi mãi mãi . Nỗi đau xót ấy cứ mãi theo tôi trong đêm tối tăm mịt mù lạnh lẽo này. Qua năm sau , giặc ngoan cố đã chịu trói , việc quân đã kết thúc. Tôi liền về ngay quê nhà được biết con mình đã biết nói. Tôi hỏi mồ mẹ rồi bế bé Đản đi thăm, đứa trẻ không chịu đi theo tôi ra tới đồng thì nó quấy khóc. Mặc dù rất mệt nhưng tôi vẫn kiềm lòng dỗ dành con nhỏ của mình. Chẳng ngờ đâu, Đản thốt lên những lời ngây thơ, khiến tôi nghi ngờ vợ tôi đã không giữ gìn trinh tiết và phẩm hạnh trong nhưng ngày tôi ở nơi sa trường.

Tính tôi hay ghen nghe con nói vậy tin chắc đinh ninh là vợ hư, không còn cách gì tháo cởi ra được. Về đến nhà tôi liền lôi vợ ra la mắng , buôn lời chỉ trích mặc kệ láng giềng hết lời bênh vợ, tôi vẫn không tin. Vợ tôi gạn hỏi việc kia ai nói nhưng tôi vẫn không nói ra là lời con nói. Trong cơn ghen tức tôi liền đuổi nàng ra khỏi nhà mặc cho họ hàng bênh vực và biện bạch cho nàng. Tôi không ngờ, vì quá đau buồn, bị tôi ruồng rẫy, nàng đã tìm đến cái chết trên bến sông.

Mấy hôm sau tôi ngồi với bé Đản trong căn phòng không vắng vẻ chợt con chỉ lên cái bóng của tôi trên tường nói là cha Đản. Ngay lúc ấy tôi mới chợt hiểu, khi tôi vắng nhà vì quá đau buồn nên nàng mới nói dối bé Đản cái bóng là cha Đản để con không nghĩ rằng nó không có cha. Bây giờ thì cũng đã quá muộn rồi, cảnh vật nay còn mà người thì đâu mất?

Phan Lang là người cùng làng với tôi đêm ấy hắn nằm mơ thấy có một cô gái mặc ái xanh van xin hắn tha mạng. Sáng dậy hắn nhặt được một con rùa màu xanh liền đem thả con rùa về nơi vốn có của nó. Sau khi đi câu cá thì hắn bị trượt chân té xuống dòng sông . Đúng lúc đó tôi đang đi ngang liền nhảy xuống sông tìm huynh ấy nhưng chẳng thấy đâu. Tôi mới về báo quan để cho binh lính đi tìm. Hôm sau có một chàng trai đến nhà tôi và nói rằng tôi đã gặp vợ của anh là nàng Vũ Nương. Mới đầu tôi cũng chẳng tin lời hắn ta nói nhưng hắn bảo rằng Vũ Nương gửi một chiếc hoa vàng và dặn: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một dàn giải oan ở bến sông,đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về. “

Vì có chiếc hoa vàng ấy tôi mới tin lời hắn ta liền lập một dàn giải oan ở bến sông Hoàng Giang như lời Vũ Nương căn dặn. Ngay lúc đó vợ tôi hiện lên thật nhưng lúc ẩn lúc hiện. Nàng ngồi trên một chiếc kiệu hoa mặc y phục đẹp lộng lẫy theo sau là năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông. Tôi vội gọi nhưng nàng vẫn ở giữa dòng sông mà nói vọng vào:

“Thiếp cảm ơn, ơn đức của Linh Phi đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về lại được nhân gian nữa. “Rồi trong chốc lát , bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất .

Tôi gục đầu bên gốc cây thổn thức, mơ màng lúc thật lúc giả. Một sự ân hận ghê gớm vào tâm can tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho tình chàng nghĩa thiếp đã ra đi mãi mãi . Sai lầm của tôi không thể nào cứu chữa được nữa . Suốt đời suốt kiếp trong tim tôi vẫn mãi khắc ghi hình bóng của nàng và sai lầm mà tôi đã mắc phải trong kiếp người này.


Bài tham khảo:

  • Mở bài:

Chuyện ma quỷ hiện linh lưu truyền trong nhân gian xưa nay không hiếm, tôi chưa hẳn đã tin. Nhưng cầm chiếc trâm cài trong tay, tôi mới hay Phan Lang quả thật đã không nói dối. Chiếc trâm hoa này chính tôi đã mua tặng cho Vũ Nương khi cưới nàng về là vợ. Nghĩ lại cảnh đời trớ trêu tôi càng ân hận và thấy thương Vũ Nương vô cùng.

  • Thân bài:

Tôi là Trương Sinh, vốn sinh ra là con nhà hào phú. Cha tôi mất sớm, chỉ còn có mẹ già nhưng gia cảnh vẫn hết sức sung túc. Thực hiện niềm mong mỏi của mẹ, có người nối dõi tông đường về sau, tôi ngày đêm ưu tư, tìm kiếm người con gái thảo hiền để mẹ có người bầu bạn sớm hôm cho đỡ hờn tủi.

Nghe ở huyện Nam Xương có một người con gái tên là Vũ Thị Thiết tôi đã đem lòng yêu mến. Nàng tuy con nhà nghèo khó nhưng là người đã thùy mị nết na. Lại thêm nàng là người có tư dung tốt đẹp. Nên tôi xin mẹ trăm lạng bac xin cưới nàng về làm vợ.

Tôi từ lâu do được cha mẹ nuông chiều, lại sống trong phú quý nên tính tình có phần kiêu hãnh, lại thêm hay đa nghi người khác. Hiểu được tính tôi, nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa.

Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì giặc Chiêm Thành quấy nhiễu biên cương. Triều đình bắt nhiều lính tráng đầu quân. Tôi tuy con nhà dòng, nhưng không có học, tên đã ghi trong sổ khai tráng phải ra sung binh loạt đầu. Lo sợ tôi gặp hiểm nguy nơi xa trường, không người thừa tự tông phả, mẹ tôi lo láng vô cùng. Nhiều lần lo lót tiền bạc nhưng cũng không thể miễn được.

Ngày ra đi đất trời u ám. Xóm làng cũng ngậm ngùi đến tiễn đưa đứng kín cả sân nhà. Mẹ tôi ngồi trên phản lớn, nước mắt lưng tròng dặn dò tôi hết sức chu đáo:

– Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp. Nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng. Biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh. Đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.

Tôi cũng chẳng tham gì công trạng. Từ lâu chỉ muốn sống yên thân, bó buộc nơi thôn dã. Công danh sự nghiệp của người làm trai tuy có quan trọng nhưng phụng dưỡng mẹ già chu toàn vẹn tất. Trọn đời chỉ mong thực hiện đạo hiếu với mẹ. Nắm lấy tay mẹ, tôi quỳ xuống lạy tạ vâng lời, hứa sẽ trở về bình an. Mẹ tôi cũng yên tâm phần nào.

Vũ Nương đứng cạnh cũng rót ly rượu từ biệt thiết tha:

– Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công. Lời tâu công lớn phá giặc đã chầy. Kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An, nhanh tay đập áo rét. Ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về”.

Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi đó, chén rượu tống tiễn tay đưa vừa cạn, dứt áo chinh phu. Ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt. Trống hội quân vang lên giục giã như cào xé trong lòng. Dù hết sức điềm tĩnh nhưng tôi cũng không thể cầm được dòng nước mát đang lăn chảy. Ra đi chuyến này muôn trùng cách trở, chưa biết ngày về mà nàng lại đang có mang con nhỏ. Lại thêm mẹ già tuổi đã xế chiều, sức không còn khỏe nhỡ có mệnh hệ gì thì biết làm sao.

Tôi suy nghĩ rất nhiều nhưng quân tình gấp gáp đành gác lại riêng tư lên đường cho kịp ngày giờ. Thoáng một cái, gót ngựa đã đến nơi xa. Trong lại chỉ còn trong thấy bóng quê nhà trong mịt mờ khói bụi. Từ đậy, chiến trận ác liệt nên tin tức quê nhà cũng bặt vô âm tính.

Hai năm đằng đẵng trôi qua, cuối cùng giặc dữ cũng quy hàng. Cõi biên thùy lại yên lặng sóng gió. Tôi trở về sau bao năm tháng ly biệt. Hai vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Nhìn đứa con thơ ngơ ngác lần đầu gặp cha toi vô cùng xúc động. Lại thêm mẹ già cùng kiệt đợi con về mà không thấy đã sớm lìa đời, tôi vô cùng đau đớn. Nhiều lần tự trách mình bất hiếu đã không thể làm tròn bổn phận của người con. Mẹ tôi trước lúc lìa khỏi trần gian đã không được nhìn thấy đứa con trai duy nhất. Tôi cũng không được thắp nén hương tiễn đưa vong linh người về suối vàng.

Sáng hôm sau, tôi bế con trai ra viếng mộ mẹ, trong lòng trĩu nặng ưu tư. Lúc thắp hương tưởng niệm, con trai tôi cứ quấy khóc không chịu ở lại, cứ nằng nặc đòi về. Tôi nhẹ nhàng dỗ dành:

– Con nín đi, đừng khóc! Cha về bà đã mất, lòng cha đã buồn khổ lắm rồi! Con đừng khóc thêm nữa!

Nào ngờ, con tôi buộc miệng ngây thơ khiến tôi không khỏi sửng sốt:

– Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít.

Tính tôi hay hoài nghi, lại rất hay ghen, từ trước vốn đã không nặng lòng tin tưởng vợ tôi, nên khi nghe câu nói con trẻ khiến lòng ghen nỗi dậy nhấm chìm cả lí trí:

– Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến. Mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.

Vin vào lời con nói, tôi đinh ninh cho rằng Vũ Nương ở nhà đã không biết giữ gìn trinh tiết, dan díu với gian tình, bôi nhọ gia phong, làm nhục gia thế. Trở về nhà, tôi nặng lời mắng nhiếc thậm tệ, đánh đập cho bỏ tức. Nàng hết lời minh giải, gợi nhắc tình xưa, than lời ai oán. Nàng thề đã giữ trọn tiết hạnh khả phong chẳng khi nào sai trái. Hỏi có làm sao, tôi vẫn không nói. Hàng xóm cảm thương đến can ngan, minh chứng tôi cũng không nghe. Giận qua mất khôn, tôi đã đuổi nàng đi, từ nay đoạn tuyệt, không thèm nhìn nhận nữa.

Quá tuyệt vọng, nàng thốt lời đâu đớn:

– Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.

Tôi chỉ nghĩ nàng sẽ đi đâu đó dăm ba ngày, đợi tôi hồi tỉnh sẽ trở về biện minh, oan giải. Nào ngờ, nàng trong lúc bế tắc, lại bị chính chồng mình phủ nhận đã trầm mình xuống sông xanh tận tuyệt, kết liễu cuộc đời trong phẫn uất.

Tôi tuy giận là thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận, cũng động lòng thương. Tôi vội tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả.

Khi Vũ Nương mất ròi, tôi đêm đêm ôm ấp con trẻ thay mẹ. Đứa con không còn mẹ, buồn tủi mà khóc suốt đêm thâu. Tôi phải bế lên dỗ dành. Bất ngờ, con tôi chỉ lên cái bóng của tôi trên tường mà thốt lên rằng:

– Cha Đản lại đến rồi!

Lúc này tôi mới hoảng hồn nhận ra. Thì ra khi tôi đi vắng, Vũ Nương thường chỉ lên cái bóng của mình trên tường nói rằng là cha đó để chơi đùa cùng con. Nàng muốn làm con bớt nỗi trống vắng bóng hình người cha. Tôi vô cùng ân hận, bế con đi khắp làng trên xóm dưới tỏ bày sự tình và xin mọi người tha thứ. Ai cũng ngùi ngùi cảm động. Có người còn khóc thương thảm thiết.

Họ kể tôi nghe, những ngày tôi ở ngoài mặt trận, Vũ Nương ở nhà tuy hết sức đảm đang, khổ nhọc chăm con nhỏ. nàng còn tận tâm phụng dưỡng mẹ già chu đáo nhưng chưa lúc nào than vãn điều gì. Nàng một mình cam chịu, lầm lũi sớm hôm, thay tôi lo chu toàn mọi việc. Mẹ tôi vô cùng cảm động, dù đã gắn gượng đợi tôi về nhưng sức cùng lục kiệt, không thể đợi chờ được thêm. Trước lúc ra đi còn gửi lời dặn dò tha thiết, ca ngợi tấm lòng hiếu thảo của Vũ Nương. Bà còn cầu mong điều may mắn, an lành đến với nàng.

Những đêm con khóc quấy dỗ mãi không nín, nàng thường chỉ lên cái bóng của mình ở trên tường, nói rằng là cha đó. Con tôi tưởng thật, không khóc nữa. Nàng muốn con luôn có cha, an tâm trong giấc ngủ. Tấm lòng của nàng thật ấm áp biết bao.

Trời ơi! Chỉ vì nghe lời nói vu vơ của con trẻ mà tôi đã hại chết người vợ hiền đức, thủy chung. Chỉ vì sự ngu ngốc, mê muội của tôi mà tôi đã phụ lòng nàng, phủ nhận công ơn của nàng. Mẹ ơi! Con là đứa con bất hiếu, đã phụ lòng mong mỏi của mẹ. Ơi Vũ Nương! Kiếp này nàng đến với ta bằng tấm lòng trinh bạch. Chỉ vì lòng ghen quá độ mà ta đã nghi oan cho nàng, ích kỉ đến đê tiện, phụ tình khiến nàng phải chết oan uổng.

Đêm khuya vắng, ly rượu nhạt nhòa, nước mắt lưng tròng. Nghĩ đến chuyện xưa mà lòng nặng trĩu như Thái Sơn, ai oán hơn trăm vạn nỗi buồn thảm. Oan nghiệp ấy dù vô tình hay cố ý cũng không thể nào tha thứ được. Tôi không mong muốn điều gì hơn là Vũ Nương sẽ rời khỏi cung nước, trở về cùng chồng, cùng con nhỏ để con thơ có mẹ, mà tôi còn có cơ hội để đáp đền công đức của nàng.

Tôi đã lập đàn giải oan cho vợ đúng như lời Phan Lang đã dặn dò. Lại còn bày biện lễ nghi sẵn sàng đón rước Vũ Nương trở về. Hôm ấy, người trong làng cũng cùng ra xem hết sức đông đảo. Bỗng nhiên trời đất tối sầm lại, sương khói không biết từ đâu tràn phủ khắp mặt sông nước. Rồi quả thấy Vũ nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng. Theo sau lại có đến hơn năm mươi chiếc thuyền nữa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông. Đoàn thuyền lúc ẩn lúc hiện trong sương khói. Tôi vô cùng mùng rỡ, liền với gọi, van xin nàng tha thứ:

– Ta đã biết mình sai rồi, hãy tha thứ cho ta. Nàng hãy vì tình xưa mà trở về với con đi.

Vũ Nương vẫn ở giữa dòng mà nói với vào, giọng vang vọng như lời gió thổi mây bay:

– Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa.

  • Kết bài:

Tôi có gọi mãi nhưng nàng không nghe nữa. Đoàn thuyền dần ra xa rồi biến mất. Mặt sông hiện ra trơ trọi. Tất cả đã không còn gì nữa. Người trong làng cũng bỏ về hết, mặc tôi một mình than khóc không nguôi. Tôi không trách nàng, chỉ trách mình phụ bạc, ăn ở bất nghĩa, bất tín, vô tình vô cảm. Nàng sẽ tìm thấy sự bình yên nơi cung nước thẳm, không bao giờ trở về trần gian nữa. Tôi mãi mãi mất đi một người vợ thủy chung.  Đây là hậu quả xứng đáng dành cho kẻ bạc tình vô tâm như tôi.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang