mot-thoi-dai-trong-thi-ca-hoai-thanh

Kiến thức văn bản: “Một thời đại trong thi ca” của Hoài Thanh

Một thời đại trong thi ca
(Hoài Thanh)

I. Tác giả Hoài Thanh:

– Hoài Thanh (1909 – 1982) tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên, sinh tại xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nhà nho nghèo. Ông tham gia các phong trào yêu nước từ khi còn đi học.

– Tháng 8 năm 1945, ông tham gia cách mạng và làm Chủ tịch Hội văn hoá cứu quốc ở Huế, sau đó giữ nhiều chức vụ quan trọng trong ngành văn hoá – nghệ thuật. Hoài Thanh được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật năm 2000.

– Hoài Thanh là một trong những nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với phương châm “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”, văn phê bình của Hoài Thanh tinh tế, tài hoa, nhẹ nhàng và ý vị.

– Tác phẩm chính: “Văn chương và hành động” (1936), “Thi nhân Việt Nam” (1942), “Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du” (1949), “Nói chuyện thơ kháng chiến” (1950), “Phê bình và tiểu luận” (3 tập: 1960, 1965, 1971). Trong đó nổi bật nhất là cuốn “Thi nhân Việt Nam”.

– Đoạn trích thể hiện quan niệm của tác giả về tinh thần thơ mới, thuộc phần cuối bài “Một thời đại trong thi ca” – tiểu luận mở đầu cuốn “Thi nhân Việt Nam”.

II. Tập “Thi nhân Việt Nam”.

– Mười năm, một quãng thời gian ngắn ngủi của tiến trình văn học, song đối với phong trào Thơ Mới, mười năm là cả một thời đại thi ca. Một thời đại được đánh dấu bằng bài thơ “Tình già” của Phan Khôi đăng trên báo Phụ nữ tân dân số 122 ngày 10 tháng 3 năm 1932, một trào lưu văn học mới ra đời, sự giải phóng tình cảm cá nhân, tự do thể hiện những điều thầm kín chừng như bị đè nén hơn 10 thế kỷ của nền văn học trung đại đã tạo nên thành tựu lớn trong lịch sử thi ca Việt Nam. “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh – Hoài Chân là bản tổng kết phong trào Thơ Mới, là bảng xướng danh để tôn vinh những tài năng thơ ca Việt Nam thế kỷ XX, là công trình phê bình lý luận văn học đáng trân trọng.

– Hoài thanh viết “Thi nhân Việt Nam” năm 1941, hoàn thành năm 1942, in lần đầu năm 1942 tại nhà in tư nhân Nguyễn Đức Phiên, và cho đến nay cuốn sách đã được tái bản rất nhiều lần. Cuốn sách ra đời vào thời kỳ đỉnh cao của Thơ Mới với hàng loạt các tên tuổi và những tập thơ hay lần lượt ra đời như: Chế Lan Viên – Điêu tàn (1937), Xuân Diệu – Thơ Thơ (Đời nay, Hà Nội, 1938), Huy Cận – Lửa thiêng (1940), Thế Lữ – Mấy vần thơ, tập mới (Đời Nay, Hà nội, 1941), Lưu Trọng Lư – Tiếng thu (1939), Quách Tấn – Mùa cổ điển, Nguyễn Bính – Lỡ bước sang ngang (Lê Cường, Hà Nội, 1940), Vũ Hoàng Chương – Thơ say (1940)… và sau “Thi nhân Việt Nam”, phong trào Thơ Mới đi vào bế tắc, nhường bước cho trào lưu mới ra đời. Đặc biệt trong tác phẩm, chuyên luận “Một thời đại trong thi ca” với cấu trúc tự nhiên mà chặt chẽ, với lý luận sắc bén, vừa ý vị nhẹ nhàng trong nét bút tài hoa đã phản ánh những nét cơ bản, đặc trưng của phong trào từ lúc thơ mới ra đời, đấu tranh với lối thơ cũ cho đến lúc thơ mới hoàn toàn chiến thắng.

III. Nội dung văn bản.

– “Một thời đại trong thi ca” là một bản tuyên ngôn, một bản hùng ca khải hoàn, là một công trình hoàn chỉnh nhất về diện mạo của phong trào Thơ Mới trong 10 năm vinh quang. Trong khảo luận này, tác giả Hoài Thanh – Hoài Chân đã trình bày những luận điểm về:

+ Nguồn gốc thơ mới.
+ Cuộc tranh luận thơ mới – thơ cũ.
+ Vài nét về con đường phát triển 10 năm của thơ mới.
+ Đặc điểm về hình thức và thể loại.
+ Tinh thần cốt lõi của thơ mới.

1. Về nguồn gốc Thơ Mới:

– Mở đầu trong Một thời đại thi ca, Hoài Thanh Hoài Chân đã nhận định: “Một xã hội suốt mấy ngàn năm kéo dài một cuộc sống gần như không đổi, về hình thức cũng như về tinh thần. Triều đại tuy bao lần hưng vong, giang san tuy bao lần đổi chủ, song mọi cuộc biến cố về chính trị ít khi ba động đến cuộc sống nhân dân … Nhưng nhất đán, một cơn gió mạnh bỗng từ xa thối đến. Cả nền tảng xưa bị một phen điên đảo, lung lay. Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ” (Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh – Hoài Chân, trang 9). Sự ảnh hưởng của phương Tây đi vào đời sống tâm hồn con người Việt Nam đã làm một cuộc đổi thay thần tốc “Bao nhiêu cuộc thay đổi trong khoảng năm sáu mươi năm mà như năm sáu mươi thế kỷ” (sđd, trang 10). Công cuộc Âu hóa đi qua các giai đoạn hình thức, tư tưởng, thay đổi tập quán, cách sinh hoạt hàng ngày, đi tâm hồn con người tạo cách nghĩ, tình cảm con người cũng thay đổi. Những mực thước của nền giáo dục phong kiến đã bị một phen điên đảo, những chuẩn mực xã hội đã thay đổi, tình cũng đổi mới, tất nhiên cách thể hiện trong thơ cũng đổi mới. Hoài Thanh – Hoài Chân đã nhận định “Cái khát vọng cởi trói cho thi ca chỉ là cái khát vọng nói rõ những điều kín nhiệm u uất, cái khát vọng được thành hiện thực. Cái khát vọng khẩn thiết đến đau đớn”.

– Một vấn đề cần nhìn nhận khi người Pháp lần lượt bỏ chế độ khoa cử thì thể Đường luật cũng theo đó mất đi địa vị độc tôn, những luật định nghiêm ngặt của Đường thi không thể hiện được tâm cảm của con người. Và thơ mới ra đời trong cuộc đấu tranh luận khốc liệt với thơ cũ.

2. Cuộc tranh luận thơ mới – thơ cũ:

– Cuộc đấu tranh giữa thơ mới và thơ cũ trong Một thời đại thi ca có thể lượt qua các sự kiện sau :

a. Cuộc tấn công của thơ mới:

– Năm 1928, Phan Khôi công kích thơ cũ trên Đông Pháp thời báo

– Năm 1929, Trương Đình Ru công kích thơ cũ trên Phụ Nữ tân dân

– Năm 1932, trên Phụ Nữ tân dân số 122 có đăng bài “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” của Phan Khôi.

– Năm 1933, nữ sĩ Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết tại hội Khuyến học Sài Gòn tán dương thơ mới.

– Năm 1934, Lưu Trọng Lư diễn thuyết tại nhà Học hội Quy Nhơn.

– Năm 1935, Nguyễn Thị Kiêm tranh luận với Nguyễn Văn Hanh tại hội Khuyến học Sài Gòn, Đỗ Đình Vượng, Vũ Đình Liên diễn thuyết tại hội Trí Tri Nam Định.

– Năm 1936, Trương Tửu diễn thuyết tại hội Khai Trí tiến đức Hà Nội.

– Đồng thời trên các báo cũng có nhiều bài bênh vực thơ mới.

b. Phản ứng của thơ cũ:

– Năm 1933, tác giả Tân Việt diễn thuyết bênh vực thơ cũ.

– Năm 1934, Tản Đà nói chuyện thơ mới, thơ cũ trên Tiểu thuyết thứ bảy.

– Năm 1935, Nguyễn Văn Hanh hai lần diễn thuyết tại hội Khuyến học Sài Gòn.

– Năm 1937, Nguyễn Văn Hạnh diễn thuyết tại hội Quảng Trị Huế.

– Ngoài ra trên nhiều trang báo cũng có đăng bài đả kích thơ mới.

3. Vài nét về con đường phát triển 10 năm của thơ mới:

– Hoài Thanh – Hoài Chân, tác giả của Thi nhân Việt Nam đã ghi lại: “ Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (Thi nhân Việt Nam, Nxb Hà Nội 1988, trang 25). Mười năm (1932-1941), thơ mới đã đấu tranh với thơ cũ và kết thúc bằng thắng lợi vẻ vang, cái tôi cá nhân được giải phóng. Tác giả Hoài Thanh – Hoài Chân đã chia ra từng giai đoạn nhỏ:

– Những năm 1932 – 1935 : vai trò của Thế Lữ

– Những năm 1935- 1941 : vai trò của Xuân Diệu – Huy Cận; nhóm thơ tả chân; nhóm thơ tượng trưng.

4. Đặc điểm về hình thức và thể loại:

– Sự gặp gỡ nền văn minh phương Tây không làm mất đi bản sắc dân tộc. Mặc dầu ảnh hưởng nền văn học phương Tây nhưng trong phong trào Thơ Mới vẫn mang đậm dấu ấn của nền văn học truyền thống. Có thể chia thành 3 dòng chính như sau:

+ Hồn thơ tiếp thu ảnh hưởng của văn học phương Tây.

+ Hồn thơ Đường trong phong trào Thơ Mới: Thái Can, Quách Tấn …

+ Dòng thơ có tính cách Việt Nam: Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính …

+ Về hình thức, phong trào Thơ Mới đã bỏ đi nhiều khuôn phép xưa của thơ cũ đồng thời tạo ra nhiều cách thể hiện mới như: Thơ tự do, thơ 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ, lục bát.

5. Tinh thần cốt lõi của Thơ Mới:

– “Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa – hay thơ cũ – và thời nay – hay thơ mới – có thể gom lại trong hai chữ tôi và ta… Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả.” (sđd, trang 43,44).

– Theo Hoài Thanh, tinh thần Thơ Mới là ở chữ tôi. Đó là một nhận định chính xác, dứt khoát, tự tin, khoa học. Cái tôi tuyệt đối, độc lập, trữ tình, tự khẳng định mình tách khỏi cái ta chung, riêng một cõi, một thế giới. Hoài Thanh – Hoài Chân khẳng định “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng thấy lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.” (sđd, trang 45). Tác giả đã đưa ra bi kịch của cái tôi “Ngày nay lớp thành kiến phủ linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hoè phủ lên thi tứ. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều, một điều vẫn hơn trăm nghìn điều khác: một lòng tin đầy đủ.” (sđd, trang 46). Và bi kịch ấy, họ gửi cả vào tiếng Việt để tạo nên phong trào Thơ Mới đặc sắc nhất trong lịch sử thi ca Việt Nam.


Tham khảo:

Phân tích “MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA” (Hoài Thanh).

Nhìn lại tiến trình văn học Việt Nam những năm 1930 – 1945 người ta không khỏi giật mình trước sự phát triển kỳ diệu của nó. Sự phân hoá giai cấp trong xã hội đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn chương, đặc biệt là thơ ca lãng mạn. Sự xuất hiện của phong trào Thơ mới là một dấu son chói lọi đánh dấu bước phát triển rực rỡ, ghi tên một thời đại thơ ca lãng mạn.

Đoạn trích tập trung nêu chủ đề “Tinh thần Thơ mới”, có bố cục rõ ràng.

+ Phần 1 (từ đầu đến đại thể): đặt vấn đề tinh thần thơ mới.

+ Phần 2 (tiếp theo đến băn khoăn riêng): sự phân biệt thơ cũ và thơ mới; cảm xúc chủ đạo của thơ mới.

+ Phần 3 (còn lại): niềm tin, hi vọng vào sự phát triển của thơ mới.

Để khẳng định tinh thần của Thơ mới, tác giả Hoài Thanh đã sử dụng một cách lập luận chặt chẽ, lôgíc. Thơ mới chính là thơ của cái Tôi cá nhân cá thể. Đặc biệt ở phần thứ hai, tác giả đã đưa ra những biện luận cụ thể về nội dung của chữ tôi trong việc phân biệt với chữ ta.

Chữ tôi là “thời của bây giờ” xuất hiện trên thi đàn Việt Nam buổi đầu còn bỡ ngỡ. Giống như một cô dâu mới, chữ tôi của thơ mới bị bao nhiêu ánh mắt tò mò nhìn ngắm, lúc ấy chữ tôi thật lạc lõng. Theo thời gian, chữ tôi dần được chấp nhận. Còn chữ ta thuộc về thời trước. Chữ ta có thể chỉ chung cho nhiều người khác với chữ tôi chỉ cá nhân cá thể. Tác giả đưa ra những lập luận về điều kiện, hoàn cảnh xã hội: Việt Nam xưa “không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình”. Vai trò của cá nhân trong cộng đồng quá mờ nhạt.

Với cách diễn đạt tế nhị, tài hoa, giàu sức thuyết phục, tác giả đã có cách dẫn dắt khá hợp lý. Mở đầu là cách đặt vấn đề về tinh thần thơ giữa thơ cũ và thơ mới. Tuy nhiên đó chỉ là sự phân biệt dựa trên cái nhỏ lẻ, cá thể. Sự phân biệt rõ phải dựa vào đại thể. Phần thứ hai, sự phân biệt này dựa trên nội dung của chữ tôi và chữ ta. Thơ mới là thơ chữ tôi. Bởi thế, tâm hồn các thi nhân thu trong khuôn khổ chữ “tôi” dễ cảm thấy cô đơn vắng lạnh: “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi… Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh”. Tiếp theo mạch cảm xúc của bài viết, cảm hứng buồn trong thơ mới được đề cập đến như một nội dung tất yếu:

“Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế”. Cách dẫn dắt lập luận càng trở nên chặt chẽ lôgíc hơn khi tác giả đưa ra các ví dụ cụ thể để so sánh, liên tưởng. Câu chuyện của Cao Bá Nhạ được gợi ra có tính chất đòn bẩy khẳng định nỗi buồn thương không nơi nương tựa của các thi nhân thơ mới. Nỗi buồn của thơ mới được biểu hiện như một bi kịch “ngấm ngầm”.

Cuối đoạn trích, bằng một câu văn chuyển ý tinh tế, tác giả đã khẳng định tình yêu tiếng Việt, tình yêu ngôn ngữ nước Việt trong tâm hồn mỗi thi nhân thơ mới: “Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt…” Tình yêu ấy chính là sự biểu hiện của lòng yêu nước, của tinh thần nòi giống bất diệt trong tâm hồn các nhà thơ mới.

Lời văn của Hoài Thanh vừa sắc sảo vừa tinh tế. Ngôn ngữ giàu hình ảnh mang sắc thái biểu cảm cao đã tạo một phong vị riêng cho lời bình của tác giả. Chẳng hạn đoạn văn: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu […]. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận” là một đoạn văn đặc sắc về giá trị nội dung lẫn nghệ thuật. Cách diễn đạt móc xích ở những câu đầu tiên đã tạo ra sự liền mạch trong cảm xúc của đoạn văn (“trong vòng chữ tôi” – mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng thấy lạnh). Khẳng định cái “tôi” cô đơn của các thi nhân thơ mới, tác giả đã mượn cách nói lặp lại cấu trúc ngữ pháp như phát triển điệp khúc: Ta thoát lên tiên, ta điên cuồng cùng, ta phiêu lưu với, ta đắm say cùng… Các câu văn giàu tính nhạc đã tạo ra các vế câu nhịp nhàng, cân chỉnh đều đặn: “động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ”.

Ở phần kết, vẫn là cách sử dụng hình thức điệp ngữ chưa bao giờ (được lặp lại ba lần), cùng với hình thức câu phủ định đã tạo hiệu quả diễn đạt cao. Phủ định để khẳng định niềm tin mãnh liệt của tác giả vào sự phát triển của thơ mới trong văn mạch của dân tộc.

Với sự hiểu biết văn học phong phú, sâu sắc, với thái độ cảm thông, trân trọng những sáng tạo nghệ thuật và với thẩm thức nghệ thuật tinh tế và cách viết tươi mát, nhẹ nhàng mà có chiều sâu, Hoài Thanh được coi như một cây bút phê bình văn học có uy tín, đã góp phần đáng kể vào sự trưởng thành của ngành phê bình văn học Việt Nam ở cả hai thời kì: Trước và sau Cách mạng.

Để đạt được thành công đó, trước hết phải nói đến tài năng cảm thụ văn học của tác giả. Chính tài năng này đã khiến cho Hoài Thanh cảm thụ được những cái hay nhất của Thơ mới. Và chính tài năng này đã đưa ông trở thành tri âm của thi nhân, của thi ca. Sinh thời Hoài Thanh rất ngại người ta gọi mình là nhà phê bình… Trong cuộc đời cũng như trong văn chương gặp được kẻ tri âm kể ra cũng khó. May mắn cho phong trào Thơ Mới, ngay từ buổi đầu đã gặp người tri âm, cho nên chỉ 10 năm sau khi xuất hiện đã có được một cuốn như Thi nhân Việt Nam.

Có lẽ trong văn học Việt Nam, chưa có công trình nào tổng kết một giai đoạn, một trào lưu văn học tài tình như cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân. Tác giả đã dày công nghiên cứu, sưu tập để chọn trong hàng vạn bài thơ của khoảng bốn ngàn người có thơ đăng báo, in sách trong khoảng mười năm phong trào Thơ mới (1932 – 1941) để chỉ giữ lại khoảng 168 bài của 45 tác giả (không kể Tản Đà và bài Thề non nước) và bình phẩm với trí tuệ uyên bác trong nét bút tài hoa và cả sự cảm nhận tinh tế trên nền kiến thức vững chãi.

Tiểu luận “Một thời đại trong thi ca” có sự kết hợp hài hòa giữa tính khoa học và tính nghệ thuật.

– Về tính khoa học: Một thời đại thi ca là một chuyên luận trong Thi Nhân Việt Nam, là công trình khảo cứu văn chương có giá trị. Chuyên luận trình bày có hệ thống luận điểm chuẩn xác, mạch lạc, có trình tự logic từ nguồn gốc thơ mới, cuộc đấu tranh thơ mới – thơ cũ, chặng đường phát triển … Dẫn chứng chọn lọc, lập luận chặt chẽ mà uyển chuyển, đầy sức thuyết phục qua cách nhìn tinh tế, am tường sâu sắc. Tác giả đã có cách nhìn xuyên suốt thời đại, từ quá khứ mấy ngàn năm đến với thời hiện đại bằng cách nhìn khoa học, thấu đáo. Đồng thời để tăng tính thuyết phục, tác giả đã sử dụng nhiều biện pháp đối chiếu, so sánh các cấp độ phù hợp, hiệu quả và đặc biệt. Mặc dù chuyên luận ít nhiều vẫn mang tính chủ quan, song tác giả vẫn cố gắng thể hiện tích khách quan để người đọc cảm nhận giá trị của thời đại thi ca như trong Nhỏ to … tác giả có viết: “Nếu bảo rằng tôi không ái ngại người này, không khinh ghét người kia, thì e không thực. Nhưng ái ngại hay khinh ghét, khi xem thơ, tôi chỉ biết có thơ. Tôi không hề nghĩ đến danh vọng của người hay của tôi. Danh vọng quý thật, nhưng có điều quý hơn danh vọng, quý hơn hết thảy: lòng ngay thẳng, mà ít nhất cũng phải giữ trọn trong văn chương”. Và tác giả cũng khẳng định “Cho nên gặp thơ hay tôi triền miên trong đó. Tôi ngâm đi ngâm lại hoài, cố lấy hồn tôi để hiểu hồn người”.

Đó là cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề ở tầm sâu rộng, tinh tế, đa diện về cá nhân và xã hội, thời đại, thi ca một cách lôgic và biện chứng, khách quan. Thi nhân Việt Nam là một bằng chứng để đảm bảo tên tuổi địa vị của các tác giả trên văn đàn những năm 1930-1945, là bảng xướng danh một thời đại thi ca, là lý lịch trích ngang ngắn gọn mà đầy đủ như chân dung nhà thơ hiện đại Việt Nam.

Về tính nghệ thuật: “Với Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh quả là có một hồn thơ trong lĩnh vực phê bình, hay nói một cách khác, ông là một nhà thơ đặc biệt làm thơ bằng những trang bình thơ vậy…”

Lời văn trong Một thời đại thi ca giàu cảm xúc, giọng điệu thay đổi linh hoạt, trong âm điệu giãi bày, chia sẻ, đồng cảm. cách sử dụng danh xưng ta, chúng ta tạo gần gũi như lời trần trình của người trong cuộc “Thế rồi một hôm nàng đến tìm ta và ta thấy nàng khác hẳn. Vẫn khuôn mặt cân đối ấy, vẫn cái dáng đi nghiêm chỉnh ấy, vẫn giọng nói nhỏ nhẹ ấy, nhưng mặn mà, nhưng đằm thắm y như mấy trăm năm trước, hồi nàng còn thơ …”. Nét đặc sắc của tác giả là trong từng câu chữ luôn tạo âm điệu ngân vang, lúc nhặt lúc khoan, lúc nhẹ nhàng êm ái như dòng sông xuôi nguồn ra biển lớn, lúc dào dạt du dương như lời ru giữa trưa hè, lúc mạnh mẽ khẳng khái như khúc tráng ca và cả những lúc trầm lắng suy tư : “Không, từ bao giờ đến bây giờ, từ Homère đến Kinh Thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó ra đời giữa những buồn vui của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế”.

Tác phẩm mang dáng dấp phê bình văn học lại không khô khan gò bó. Nhiều hình ảnh cụ thể, gợi hình, gợi cảm, gợi liên tưởng đã thể hiện cảm xúc thành thực, nồng nhiệt, sự đồng cảm sâu sắc. Phải chắt lọc trong việc đãi cát tìm vàng, phải có tầm nhìn bao quát và một tâm hồn vị tha đúng mực mới có được những dòng phê bình sâu sắc, ý nhị đến thế. Đọc những dòng chữ trong Thi nhân Việt Nam, người đọc tìm gặp vẻ lấp lánh của ngôn từ nghệ thuật, sự đồng cảm của tâm hồn yêu thơ, nhân hậu bao dung.

Những đóng góp của phong trào Thơ mới về mặt thi pháp đối với sự phát triển của nền thi ca dân tộc

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang