nhung-cuoc-hanh-quan-gian-kho-va-khung-canh-thien-nhien-mien-tay-hung-vi-du-doi-tho-mong-tru-tinh-qua-doan-tho-song-ma-xa-roi-tay-tien-oi-mai-chau-mua-em-thom-nep-xoi

Những cuộc hành quân gian khổ và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội, thơ mộng, trữ tình qua đoạn thơ: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!… Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Những cuộc hành quân gian khổ và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội, thơ mộng, trữ tình qua đoạn thơ.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!…………Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

  • Mở bài:

Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài. Ông vẽ tranh, làm thơ, sáng tác nhạc. Bởi thế, trong thơ ông là sự kết hợp độc đáo và sâu sắc các lĩnh vực nghệ thuật một cách tinh tế, hài hòa. Bài thơ “Tây Tiến” là sáng tác tiêu biểu nhất của hồn thơ Quang Dũng. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp.Quang Dũng là chính trị viên của đơn vị này. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Trong một đêm thương nhớ, ông đã viết bài nên bài thơ này. Bài thơ nói lên nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ, xa ngái nhưng thơ mộng, trữ tình. Đó còn là nỗi nhớ con người: những chiến sĩ hào hoa, hào hùng, dũng cảm, giàu lòng yêu nước trong đoàn binh Tây Tiến đã chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc.

  • Thân bài:

Hai câu đầu khơi mở mạch cảm xúc cho bài thơ:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi,
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”

Đối tượng thứ nhất của nỗi nhớ ấy là con Sông Mã, con sông gắn liền với chặng đường hành quân của người lính. Tác giả gọi tên con sông mã đầu tiên trong nỗi nhớ của mình. Vì dòng sông Mã là người bạn, là nhân chứng đã theo suốt bước chân quân hành, đã chứng kiến biết bao buồn vui, bao mất mát hi sinh của người lính Tây Tiến

Đối tượng nhớ thứ hai là nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội, nhớ bao gương mặt một thời chinh chiến. Tác giả gọi tên Tây Tiến là gọi tên đồng đội, gợi nhớ bạn bè. Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kiềm nén nỗi, bật lên thành tiếng gọi “Tây Tiến ơi!” Nhà thơ cất lên tiếng gọi Tây Tiến như tiếng gọi người thân yêu, như muốn gọi thức dậy bao kỉ niệm.

Nỗi nhớ ấy được bật lên thành tiếng gọi tha thiết “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” gợi lên bao nỗi niềm lâng lâng khó tả. Từ ngữ biểu cảm “ơi” càng khiến cho ta thấy được nỗi nhớ ấy mênh mông da diết đến mức nào- đó là nỗi nhớ đang rực cháy trong lóng của tác giả thông qua tiếng gọi cất lên từ trái tim.

Đối tượng thứ ba của nối nhớ đó là “nhớ về rừng núi” . Rừng núi là địa bàn hoạt động của Tây Tiến với bao gian nguy, vất vả nhưng cũng thật trữ tình, lãng mạn. Nhưng nay, tất cả đã “xa rồi”. “Xa rồi” nên mới nhớ da diết như thế. Hai chữ “chơi vơi” vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ. Đó là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. Đó là nỗi nhớ da diết, thường trực, ám ảnh; mênh mông, bao trùm cả không gian, thời gian. Nhân vật trữ tình một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi, bâng khuâng, sâu lắng làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên.

Tiếp sau đó, hình ảnh đoàn quân trong đêm trên địa bàn gian lao, vất vả:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

Tác giả gợi nhắc nhiều địa danh xa lạ: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… để đưa người đọc bước vào những địa hạt heo hút, hoang dại theo bước chân quân hành của người lính Tây Tiến. Hình ảnh mang tính tả thực: Sương mù vùng cao như che lấp, nuốt chửng đoàn quân mỏi mệt: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ vùi lấp cả đường đi, vùi lấp cả đoàn quân trong mờ mịt. Đoàn quân hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi rã rời. Con người trở nên hết sức bé nhỏ giữa biển sương dày đặc mênh mông ấy… Nhà thơ cũng sử dụng bút pháp lãng mạn: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” gợi không gian huyền ảo: cảnh vật về khuya phủ đầy hơi sương lạnh giá. Nhưng những đoá hoa rừng vẫn nở rộ toả hương khoe sắc bất chấp sương mù lạnh lẽo.

Câu thơ với nhiều thanh bằng, tạo cảm xúc lâng lâng trong lòng người chiến sĩ khi bắt  gặp cảnh hoa nở giữa rừng, hé mở vẻ đẹp hào hoa, hào hùng, lạc quan, yêu đời của người lính.

Ấn tượng tiếp theo được tác giả tập trung bút lực để khắc họa là núi cao vực sâu, là độ dốc điệp trùng. Nhà thơ đặc tả hình thế sông núi hiểm trở nhưng không kém phần thơ mộng của miền Tây trên đường hành quân:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”.

Nhịp ngắt đã trở thành giao điểm phân định rõ ràng hai hướng lên xuống của vô vàn con dốc tạo thành các cung đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến, gợi ra những dãy núi xếp theo hình nan quạt trải dài khắp miền Tây Bắc. Người đọc hình dung ra hình ảnh dốc rồi lại dốc nối tiếp nhau, khúc khuỷu gập ghềnh đường lên, rồi lại thăm thẳm hun hút đường xuống.

Những từ láy giàu sức tạo hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự gian nan trùng điệp. Dốc “khúc khuỷu” vì quanh co, hiểm trở, gập ghềnh khó đi, vừa lên cao đã vội đổ dốc, cứ thế gấp khúc nối tiếp nhau. “Thăm thẳm” không chỉ đo chiều cao mà còn gợi ấn tượng về độ sâu, cảm giác như hút tầm mắt người, không biết đâu là giới hạn cuối cùng. “Heo hút” gợi ra sự vắng vẻ, quạnh hiu của chốn rừng thiêng nước độc. Từ láy cũng mang đến cho người đọc cảm tưởng rằng người lính Tây Tiến đã vượt qua vô vàn những đèo dốc để chinh phục đỉnh núi cao nhất, hình dung về nhũng khó nhọc trên chặng đường hành quân leo dốc gian khổ.

Câu thơ thứ ba với phép đối, cách ngắt nhịp 4/3 khiến câu thơ như bị bẻ đôi diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Hai chữ “ngửi trời” vừa đặc tả độ cao chót vót của núi. Người lính trèo lên ngọn núi cao dường như đang đi trong mây nổi thành cồn “heo hút”, mũi súng như chạm đến đỉnh trời, vừa thể hiện tính chất tinh nghịch, khí phách ngang tàng, coi thường hiểm nguy của người lính Tây Tiến.

Đối lập với ba câu trên, câu thơ thứ tư toàn thanh bằng. Âm “ơi” kết thúc dòng thơ khiến câu thơ nhẹ như nhịp thở thư giãn của người lính: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ra xa, thấy một không gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi → tận hưởng cảm giác bình yên, lãng mạn của núi rừng

Sau những ngày hành quân gian khổ, thì hồi ức của Quang Dũng tiến về sự hi sinh của một người lính Tây Tiến:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

Chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính. Có những lúc người lính mệt mỏi, kiệt sức, ngủ thiếp đi trong chốc lát rồi lại lên đường. Cũng có khi họ kiệt sức, gục ngã không thể bước tiếp cùng đồng đội.

Cách gọi “anh bạn” thể hiện tình cảm thân thiết trìu mến, cụm từ “không bước nữa”“bỏ quên đời” đều là cách nói tránh về cái chết, điều đó là giảm đi sự đau thương mất mát, đồng thời nhấn mạnh sự hy sinh cao cả của người lính chiến. Duang Dũng làm hiện lên sự kiêu bạt, ngang tàng của những chiến binh dãi dầu mưa nắng. Tư thế hi sinh “gục lên súng mũ”, thể hiện tinh thần người lính chiến dẫu có hy sinh cũng không hề rời đi trách nhiệm, trang bị gắn bó với đời lính, đó là một tư thế ngang tàng, gan góc, quả cảm của người lính

Có thể nói trong hai dòng thơ trên có sự đau đớn xót xa của nhà thơ với người đồng đội đồng thời cũng là tấm lòng cảm phục với sự hy sinh anh hùng ấy. Lời thơ cũng cho thấy cái nhìn tỉnh táo và dũng cảm của Quang Dũng khi viết về chiến tranh, nhưng không hề giấu đi những nỗi đau mất mát.

Thử thách với lính Tây Tiến đâu phải chỉ ở hình khe thế núi mà còn bao nhiêu hiểm nguy rình rập ở chốn rừng thiêng nước độc:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

“Chiều chiều”“đêm đêm” là những trạng ngữ chỉ dòng thời gian tuần hoàn, vĩnh hằng. “Chiều chiều”, tiếng thác nước gầm thét thị oai sức mạnh hoang sơ bản năng của núi rừng. Cái dữ dội của thiên nhiên được đẩy cao cực độ trong âm thanh gầm thét mạnh mẽ kia. “Đêm đêm”, sự hiện diện của cọp dữ thấp thoáng đâu đây đe doạ tính mạng con người… Hai chữ “Mường Hịch” như một dấu nặng to rơi xuống dòng thơ, không chỉ còn là một địa danh cụ thể (nơi đặt sở chỉ huy của mặt trận Tây Tiến) mà trở nên đầy ám ảnh, gợi ra dấu chân lởn vởn của thú dữ trong vắng vẻ… Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp ngự trị núi rừng miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là “chiều chiều”, “đêm đêm” – sự ngự trị muôn đời.

Cấu trúc thơ mới mẻ, độc đáo, dùng động từ mạnh mẽ trong câu “Chiều chiều oai linh thác gầm thét” thể hiện cái dữ dội, hùng vĩ hoang sơ của vùng núi rừng Tây Bắc. Bên cạnh đó, không chỉ dừng lại ở sự hoang sơ hùng vĩ, mà núi rừng nơi đây còn ẩn chứa những mối hung hiểm khôn lường, Quang Dũng viết “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”, nơi rừng thiêng nước độc, lại còn có sự hiện diện của ác thú.

Bút pháp đối lập được sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế ỏ hai câu này. Nếu câu trên có các tiếng “thác”, “thét” mang thanh trắc ở âm vực cao thì câu dưới là các tiếng “hịch”, “cọp” cũng mang thanh trắc nhưng lại thuộc âm vực thấp. Những dấu sắc trong câu trên như gợi âm thanh của tiếng nước thác man dại ở vòm cao thăm thẳm. Những dấu nặng liên tiếp trong câu thơ dưới lại như mô phỏng tiếng bước chân nặng nề của thú dư, gợ ra cái âm u, bí ẩn, đầy đe dọa ở vòm tối thấp của núi rừng.

Thiên nhiên dữ dội càng khiến chân dung người chiến sĩ Tây Tiến thêm hào hùng, mạnh mẽ. Những vùng đất hoang sơ, heo hút tưởng như chỉ là vương quốc riêng của rừng thiêng nước độc nay đã in dấu chân của những người chiến sĩ kiên cường, dũng cảm trong đoàn quân Tây Tiến. Qua ngòi bút lãng mạn và cái nhìn hoài niệm của Quang Dũng, cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ và hiểm trở hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ…

Vượt lên trên thiên nhiên khắc nghiệt ấy, người lính vẫn bám sát nhiệm vụ chiến đấu. Dưới ngòi bút của nhà thơ Quang Dũng, hình ảnh người lính hiện lên mạnh mẽ, can trường:

Địa hình hiểm trở của núi rừng đã gợi ra sự vất vả, những hơi thở nặng nhọc của người lính Tây Tiến trên mỗi chặng hành quân vượt dốc. Đoàn quân không chỉ có lúc mỏi mệt “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”, mà còn có không ít những mất mát, hi sinh:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

Hai câu thơ như một thước phim được cố ý quay chậm, phơi bày ra sự thật khắc nghiệt về những gian khổ, hi sinh của đời lính. Người chiến binh mệt mỏi vì đường xa, vì đói khát, bệnh tật… vẫn cố gắng tiến bước cho đến lúc buộc phải nằm lại trên dọc đường hành quân. Hai chữ “dãi dầu” đã gói ghém trong đó biết bao những khó khăn gian khổ mà người lính Tây Tiến đã trải qua trên những cung đường hành quân. Chữ “gục” đã khắc tạc hình ảnh người lính kiệt sức thật tội nghiệp. Những thanh “ngã” xuất hiện cách quãng đều đặn cũng góp phần tạo nên âm điệu ảo não trong câu thơ.

Đáng chú ý là lối xưng hô của nhà thơ, không phải là cách gọi “đồng chí” phổ biến quen thuộc trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, mà là “anh bạn”. Một từ giản dị ấy thôi nhưng gói ghém cả tình đồng chí, cả tình bạn bè và cả nghĩa ruột thịt sâu nặng. Tuy nhiên, nhà thơ đã dùng những cụm từ “không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời” để tránh đi màu sắc tang thương, để vơi đi nỗi nghẹn ngào xót xa đang trào dâng. Chính vì thế, câu thơ nói về cái chết nhưng không có màu sắc bi lụy.

Nhà thơ cũng tập trung khắc họa tinh thần lạc quan, yêu đời, khỏe khoắn của người lính Tây Tiến trên mỗi chặng đường dài:

“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

Dốc dựng đứng giữa trời, nên khi chinh phục được, người lính tưởng chừng như đang bồng bềnh đứng giữa biển mây, độ cao của bầu trời chỉ còn trong tầm mũi súng. Từ “ngửi” là cách nói tếu táo, tinh nghịch của lính tráng, dám trêu ghẹo cả tạo hóa. Nó không chỉ cho thấy sự lạc quan, yêu đời của lính Tây Tiến mà còn gợi ra tư thế khỏe khoắn của con người trước thiên nhiên. Người lính giữa thiên nhiên khắc nghiệt không hề bị chìm lấp đi mà nổi bật lên đầy thách thức.

Giữa mịt mù sương lạnh, người lính Tây Tiến vẫn thấy con đường hành quân thật đẹp và nên thơ: Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Vẫn là sương khói ấy thôi, nhưng cách nói “hoa về” khiến sương không còn lạnh giá nữa mà gợi sự quần tụ, sum vầy thật tình tứ và ấm áp. Giữa cái dữ dội tột đỉnh của thiên nhiên “dốc lên… ngàn thước xuống”, họ vẫn giữ được ánh nhìn vô cùng bay bổng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Ở đây, Quang Dũng đã rất tài hoa trong nghệ thuật phối hợp thanh điệu. Đang từ những thanh trắc liên tiếp trong 3 câu thơ trên, đột ngột một dòng thơ toàn thanh bằng đã cân bằng lại mạch thơ, tạo cảm giác nhẹ nhàng, thư thái như chưa từng có hành trình trèo đèo vượt dốc nào. Người lính Tây Tiến dường như quên hết những mệt mỏi, gian khổ, phóng tầm mắt ra xa. Trong màn mưa phủ kín đất trời, một vài đốm nhà nhỏ ẩn hiện thấp thoáng, bồng bềnh như giữa biển khơi, thật thi vị, nên thơ, ấm áp…

Hai chữ “nhà ai” phiếm chỉ thật tình tứ, có lẽ trong tưởng tượng của những người lính Tây Tiến cũng là những chàng trai Hà thành hào hoa thì chủ nhân của những nếp nhà kia là những sơn nữ xinh đẹp

Không gian miền tây giàu tình cảm thể hiện qua hai câu thơ kết tái hiện một cảnh tượng thật đầm ấm:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng chân, nghỉ ngơi ở một bản làng, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói cơm nghi ngút, hương thơm lúa nếp ngày mùa và sự ân cần của những cô gái Mai Châu đã xua tan đi những mệt mỏi… Cảnh tượng thật đầm ấm. Bát xôi nghi ngút khói và hương lúa nếp ngày mùa được trao từ tay em làm ấm lòng người chiến sĩ, xua tan vẻ mệt mỏi. Hai từ“mùa em” làm giọng thơ ngọt ngào, êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc cảm nhận đoạn tiếp theo.

Nếu câu thơ trên có ba thanh trắc xuất hiện cách quãng đều đặn như tạc hình những tia khói mảnh dẻ bay lên qua kẽ lá rừng, đồng thời đã đẩy nỗi nhớ lên cung bậc da diết nhất thì câu thơ cuối lại toàn thanh bằng tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áp đến vô cùng. Như vậy, ấn tượng đọng lại cuối cùng trong kí ức của người lính Tây Tiến sau những chặng đường hành quân không phải là sự dữ dội, hiểm nguy mà là hương vị và tình người nồng ấm của mảnh đất miền Tây.

Những thanh bằng trong câu thơ đã diễn tả thật tinh tế cảm giác bồng bềnh, xao xuyến tới ngất ngây, đe mê trong tâm hồn những chàng trai Hà thành lãng mạn, hào hoa. Tây Tiến đã xa, Tây Bắc cũng đã xa lắm rồi, chỉ còn lại kỷ niệm. Nỗi nhớ ở đây được bộc lộ một cách tha thiết, cồn cào, nhớ cả về những bát cơm, hương khói lửa, nắm xôi ấm tình quân dân, đồng thời cũng gợi lên một thời kháng chiến vừa vất vả vừa lãng mạn, thi vị nên thơ

Sức hấp dẫn chủ yếu của đoạn thơ là vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ của rừng núi miền Tây trải dài theo chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến, được phác thảo bằng bút pháp lãng mạn ưa cực tả và thủ pháp đối lập. Nỗi nhớ chính là cảm xúc bao trùm cả đoạn thơ, khi thì khắc khoải với những kỉ niệm, lúc lại ẩn hiện trong những địa danh “hình khe thế núi”, lúc lặp đi lặp lại bằng ngôn từ diễn tả.

  • Kết bài:

Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, qua đoạn thơ, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang