phan-tich-doan-tho-minh-ve-minh-co-nho-ta-12802-2

Phân tích đoạn thơ: Mình về mình có nhớ ta…. Cầm tay nhay biết nói gì hôm nay (Việt Bắc – Tố Hữu)

Phân tích đoạn thơ: “Mình về mình có nhớ ta…”

(…….)

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây Nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạng bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

(……..)

(Việt Bắc – Tố Hữu)


  • Mở bài:

Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam với phong cách thơ trữ tình – chính trị, mang khuynh hướng sử thi và tính dân tộc đậm đà. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp, cũng là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu, ra đời nhân sự kiện lịch sử tháng 10/1954, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tác phẩm là khúc hùng ca và tình ca về cách mạng. Đoạn trích mở đầu tác phẩm, thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của nhà thơ:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ,bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buồi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

  • Thân bài:

Sau hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng. Tháng 10- 1954, các cơ quan Trung ương Đảng và nhà nước rời Việt Bắc chuyển về Hà Nội. Cuộc chia tay lịch sử lưu luyến, cảm động giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến về xuôi đã tạo nên nguồn cảm hứng cho Tố Hữu viết nên bài thơ Việt Bắc. Việt Bắc, quê hương của kháng chiến, quê hương cách mạng đã trở thành biểu tượng của nghĩa tình thủy chung với cách mạng. Nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại mối tình son sắt đậm đà trong bài thơ Việt Bắc bằng tiếng thơ rất đằm thắm, ngọt ngào. Qua năm tháng với bao biến động của cuộc sống, tiếng thơ ấy vẫn rung cảm lòng người hôm nay.

Đoạn thơ là cảnh đưa tiễn lưu luyến, bịn rịn, đầy nhớ thương của người đi và kẻ ở. Bằng cách sử dụng kết cấu đối đáp giữa “mình” với “ta” quen thuộc trong ca dao giao duyên truyền thống, cảnh đưa tiễn của đồng bào Việt Bắc với cán bộ cách mạng về xuôi được diễn tả như cảnh chia tay lưu luyến của đôi bạn tình, đôi lứa yêu nhau.

Bốn câu đầu: Lời của Việt Bắc (lời người ở lại).

Mở đầu là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”.

Hai câu hỏi được láy đi láy lại: “Mình về mình có nhớ ta / Mình về mình có nhớ không”, kết hợp với biện pháp điệp ngữ “có nhớ” đã cho thấy niềm day dứt khôn nguôi, sự băn khoăn, lo lắng của kẻ ở về sự đổi thay trong tình cảm của người ra đi cũng như thể hiện nỗi nhớ thương trào dâng mãnh liệt. Đây là trạng thái tình cảm tất yếu trong lòng người ở lại.

– Nghĩa tình của kẻ ở, người về được biểu hiện đằm thắm qua các đại từ “mình” , “ ta” thân thiết. Đại từ “mình – ta” rất quen thuộc, câu thơ nghe như một câu ca dao tình yêu (Mình về mình có nhớ ta chăng / Ta về ta nhớ hàm răng mình cười)

–  Người ở lại nhắc về “mươi lăm năm ấy” – khoảng thời gian được tính từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến khi kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, thời gian Việt Bắc gắn bó với cách mạng – Việt Bắc là chiếc nôi của Cách mạng: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”

– Cụm từ “thiết tha mặn nồng”: gợi bao tình cảm thân thương, bao nghĩa tình gắn bó giữa Việt Bắc với Cách mạng.  Câu thơ mang âm hưởng Truyện Kiều (Những là rày ước mai ao /Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình…)

– Câu lục bát tiếp theo không giống như ca dao tình yêu nữa:

Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

– Sự láy lại “mình về mình có nhớ”: âm điệu gợi tình cảm day dứt khôn nguôi. Từ “nhớ” điệp lại 3 lần trong 2 dòng thơ: tô đậm âm hưởng chủ đạo của bài thơ, gợi niềm lưu luyến nhớ thương …  “Nhìn cây nhớ núi” (nhớ Việt Bắc); “nhìn sông nhớ nguồn” (nhớ về cội nguồn lịch sử của dân tộc).  Câu hỏi gợi về tình cảm cội nguồn, nét tư tưởng, tình cảm rất dân tộc.

Kết hợp với hai câu hỏi là hai câu thơ gợi nhắc kỉ niệm. Đó là lời đưa tiễn cũng là lời nhắc nhở về những tình cảm thiêng liêng. Người ở lại đã gợi nhắc, nhắn nhủ người ra đi nhớ về: kỷ niệm mười lăm năm kháng chiến đầy nghĩa tình; về đạo lý sống nghĩa tình, thủy chung đẹp đẽ mang tính truyền thống của dân tộc; về không gian quen thuộc của thiên nhiên Việt Bắc; gợi nhắc Việt Bắc là cái nôi, quê hương cách mạng.

Bốn câu sau: là lời người cán bộ kháng chiến về xuôi (lời người ra đi):

-Trước nỗi niềm của kẻ ở, người đi im lặng trong trạng thái trữ tình sâu lắng để tri âm, thấu hiểu, đồng cảm với “Tiếng ai tha thiết bên cồn” tạo thành sự hô ứng, đồng vọng tình cảm nhớ nhung, quyến luyến trong giờ phút chia li.

– Đó là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi “bâng khuâng”, “bồn chồn” cùng cử chỉ “cầm tay nhau” xúc động bồi hồi đã nói lên tình cảm thắm thiết của người cán bộ với cảnh vật và con người Việt Bắc .

“ai” là đại từ phiếm chỉ, câu thơ mang âm hưởng ca dao,đồng thời gợi một không gian gần gũi, thân thương (“Tiếng ai tha thiết bên cầu…”)

– Những từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” đặt trong vị trí mở đầu hai vế câu thơ, với nhịp chẵn 4/4 cân xứng, từ “dạ” đặt giữa dòng tạo nên câu thơ trĩu nặng tâm trạng, cảm xúc, gợi rất đúng không khí và tâm trạng biệt li. Từ dùng rất tinh tế “bâng khuâng”: gợi nỗi niềm, cảm xúc bên trong tâm hồn. Đó là nỗi nhớ thương, day dứt, khắc khoải, bịn rịn… Hai từ dùng cân xứng trong câu thơ có tiểu đối tạo âm điệu dìu dặt, xao xuyến.

– Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” đã khắc sâu trong tâm khảm hình ảnh người dân Việt Bắc mộc mạc cùng tấm lòng son sắt.

– Buổi chia tay, đưa tiễn xúc động trào dâng đến đỉnh điểm khiến cả người đi kẻ ở đều nghẹn lời. Hành động “cầm tay nhau”, kết hợp với nhịp thơ 3/3/2 trong câu “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” đã thể hiện sức nặng của tình cảm, của những lời trao gửi, và sự bịn rịn, lưu luyến.

Cảnh tiễn đưa đầy xúc động qua hình ảnh “áo chàm”.

Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

“Áo chàm”: đơn sơ , bình dị mà khó phai – hình ảnh hoán dụ – gợi về con người Việt Bắc chân chất, mộc mạc mà nghĩa tình bền chặt.

– Nhịp của câu thơ lục bát ở đây đã có sự xáo trộn (3/3/2): Cầm tay nhau/ biết nói gì/ hôm nay… diễn tả thần tình cái ngập ngừng, bối rối lúc chia tay. “Cầm tay nhau biết nói gì”…: xúc động không nên lời, ngôn ngữ dường như đã trở nên bất lực,

– Hình ảnh cầm tay gợi tình cảm thắm thiết, yêu thương, không muốn rời xa của người đi, kẻ ở.( so sánh: “Cầm tay hỏi hết xa gần…” (Nguyễn Khuyến); “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay…” (Chính Hữu…)

“Biết nói gì”: diễn tả cái không lời nhưng thể hiện được nhiều nhất tình cảm dạt dào, dâng trào trong nỗi xúc động.

– Dấu chấm lửng ( …) cuối dòng như một nốt lặng đọng lại biết bao cảm xúc ,tình cảm vấn vương.

– Cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn, thấm đẫm nhớ thương. Đó là một cuộc chia tay lớn mang tính chất chính trị trọng đại trong hình thức cuộc chia tay tình tứ của lứa đôi.

– Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu – giọng tâm tình như tiếng nói “đồng tâm, đồng tình, đồng chí”.

– Lời thơ là tiếng lòng thiết tha. “Thơ chỉ tràn ra trong trái tim ta cuộc sống đã thật đầy” (Tố Hữu) đoạn thơ là là tiếng lòng thiết tha của nhà thơ với cuộc đời, với nghĩa tình sâu nặng của nhân dân.

Đặc sắc nghệ thuật đoạn trích.

+ Thể thơ lục bát kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển với chất dân gian, âm hưởng tha thiết ngọt ngào.

+ Đoạn thơ sử dụng kết cấu đối đáp gồm hai cặp lục bát cân đối, chủ yếu ngắt nhịp chẵn tạo sự hô ứng, đồng cảm.

+ Ngôn ngữ quen thuộc, hình ảnh thơ gần gũi, giàu giá trị biểu cảm.

+ Vận dụng sáng tạo cặp đại từ nhân xưng “mình” – “ta”.

Phong cách nghệ thuật của Tố Hữu được thể hiện qua đoạn trích.

Chất trữ tình chính trị: Sự kiện lịch sử lớn, tình cảm lớn được thể hiện tràn đầy cảm xúc.

Tính dân tộc đậm đà:

+ Về nội dung: thể hiện tình cảm gắn bó thủy chung, sâu nặng, nghĩa tình của người cách mạng với nhân dân Việt Bắc và ngược lại; khắc họa bức tranh thiên nhiên quen thuộc…

+ Về nghệ thuật: thể thơ lục bát truyền thống; sử dụng kết cấu đối đáp mình – ta của ca dao, dân ca; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị; vận dụng những phép tu từ quen thuộc của ca thơ ca dân gian; giai điệu thơ ngọt ngào, sâu lắng; sử dụng các từ láy, dùng vần và phối hợp các thanh điệu… kết hợp với nhịp thơ tạo thành nhạc điệu phong phú, diễn tả nhạc điệu bên trong của tâm hồn mà ở bề sâu của nó là điệu cảm xúc và tâm hồn dân tộc.

Đánh giá đoạn trích:

– Đoạn thơ đã giới thiệu cảm hứng chủ đạo của thi phẩm, và thể hiện tập trung những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật của tác giả.

– Những nét nổi bật trong phong cách nghệ thuật Tố Hữu đã tạo nên diện mạo riêng và sự thành công cho thơ ông. Nó còn góp phần làm nên sức hấp dẫn đặc biệt cho thơ ca cách mạng, đặc biệt là thơ trữ tình chính trị. Đồng thời bộc lộ tình cảm sâu sắc của tác giả đối với cách mạng và kháng chiến.

  • Kết bài

– Đoạn thơ thể hiện tiếng hát thủy chung hướng về những tình cảm cội nguồn khơi dậy trong ta niềm tự hào và lòng yêu mến chiếc nôi cách mạng – Việt Bắc.

Phân tích tình cảm thủy chung son sắt, lòng biết ơn chân thành và ghi lòng tạc dạ của người cán bộ về xuôi trong bài thơ Việt Bắc: Ta với mình, mình với ta…. Chày đêm nện cối đều đều suối xa


Bài tham khảo:

Cảm nhận tình cảm luyến lưu, bịn rịn giữa người đi kẻ ở trong đoạn thơ: “Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng….”

  • Mở bài

Việt Bắc không kể là bài ca ân tình mà còn là bản tổng kết 15 năm Cách mạng đầy gian khổ. Bài thơ được viết bằng giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết, tái hiện lại cuộc chia tay giữa người đi kẻ ở, giữa ta và mình đầy lưu luyến, bịn rịn:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây Nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạng bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

  • Thân bài

Đoạn thơ là tiếng lòng của người đi kẻ ở, được tác giả tái hiện lại bằng lối nói đối đáp rất quen thuộc của ca dao, dân ca: “ta về”, “ mình có nhớ” làm cho đoạn thơ mang âm hưởng của một bài hát Giao Duyên vừa đằm thắm vừa mang nặng nghĩa tình. Bao trùm cả đoạn thơ còn là một nỗi nhớ khôn nguôi giữa  “ta”“mình” ( chú ý: bốn từ “nhớ” được lặp lại và việc láy lại bốn lần tự “mình” trong đoạn thơ).

Mở đầu là 4 câu thơ ngọt ngào, tha thiết và cũng chính là những lời ướm hỏi của người ở lại với người ra đi:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”.

“Mười lăm năm” là một quãng thời gian không phải là quá dài nhưng đã có “biết bao nhiêu tình” và biết bao kỷ niệm nhưng giờ đây phải giã biệt. Người ở lại rất nhạy cảm trước sự thay đổi của hoàn cảnh. Người ở lại sợ rằng người bạn của mình khi về thành phố sẽ quen với “ánh điện cửa gương” rồi quên mất ánh trăng thuở nào. Vì vậy luôn gợi nhắc những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình. Đó là những tháng ngày cùng  nhau đồng cam cộng khổ trong suốt 15 năm Cách mạng. Giờ đây Việt Bắc để trở thành quê hương cách mạng, là con nuôi của nghĩa tình.

Nhìn cảnh lại nhớ đến người. Cảnh và người Việt Bắc có biết bao nghĩa tình đối với những người kháng chiến. Đó là những năm tháng “thiết tha mặn nồng”  không thể nào quên đối với người ở lại. Lời thơ vang lên như một nỗi niềm day dứt  khôn nguôi. Cái tình ấy đã trở nên lớn lao và thiêng liêng. Đó là “tình yêu cội nguồn”.

Lời người ở lại còn là sự khẳng định mãi mãi giữ trọn tấm lòng thủy chung của mình dù cho hoàn cảnh có thay đổi. đây là tâm trạng thật là nghĩa tình sâu nặng của đồng bào với cách mạng. Nếu  bốn câu đầu là lời của người ở lại thì bốn câu sau lại là tiếng lòng của người ra đi:

Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạng bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Người ra đi không trả lời trực tiếp câu hỏi của người ở lại nhưng trong lòng cũng mang một nỗi nhớ khôn ngui. Đó không chỉ là nhớ người mà còn là nhớ chính mình. Tình cảm của người ra đi dù không được nói lên trực tiếp bằng lời nhưng lại được diễn tả bằng sự “bâng khuâng” trong tâm trạng đầy nhớ thương và cả sự “bồn chồn” khi bước chân đi. “Tiếng ai tha thiết” như một lời động vọng sao mà gần gũi thân thương biết bao.

Đáng chú ý là hình ảnh mang tính hoán dụ “áo chàm” không chỉ đơn thuần dùng để chỉ màu áo quen thuộc của người dân Việt Bắc (áo nhuộm màu cây chàm) mà còn là hình ảnh tượng trưng cho toàn thể người dân Việt Bắc trong ngày đưa tiễn những đồng chí cách mạng về xuôi: “chàm nhau thêm đậm, phấn son chẳng nhòa”.

“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” là một hình ảnh có giá trị biểu cảm cao. Dù không nói ra được thành lời nhưng trong lòng lại muốn nói nhiều lắm. Đó chính là tấm lòng son sắt của những người cách mạng với quê hương Việt Bắc, với cội nguồn của cách mạng. Nhịp thơ 3/3/2 diễn tả  thân tình một thoáng ngập ngừng của nỗi lòng bâng khuâng bịn rịn lúc chia tay.

Sử dụng lối nói đối đáp của ca dao,  cặp đại từ nhân xưng “mình” ,”ta” lặp lại. Lời thơ ngọt ngào sâu lắng, chan chứa tình cảm: thiết tha mặn nồng, bâng khuâng, bồn chồn. Thể thơ lục bát êm dịu đầm đà tính dân tộc.

Với tình thơ tha thiết, giọng thơ êm ái, đoạn thơ trở thành khúc trữ tình đặc sắc thể hiện tình cảm của đồng bào Việt Bắc với các đồng chí cách mạng. Đồng thời cũng là tình cảm của các đồng chí cách mạng đối với những con người bình dị mà nặng tình nặng nghĩa  “nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”. đây cũng là đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.

  • Kết luận

Đoạn thơ “Mình về mình có nhớ ta…” là tiếng lòng của người đi – kẻ ở tràn ngập một nỗi nhớ thương da diết về những kỷ niệm của một thời bom đạn khốc liệt, hào hùng. Giọng thơ ngọt ngào, âm điệu da diết cùng với thể thơ giàu tính dân tộc để diễn tả thành công trạng thái tình cảm nhớ thương, bịn rịn trong buổi chia tay.

Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang