Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt.
I. Mở bài:
– Kim Lân là một cây bút có tài, các sáng tác của ông hướng vào chủ đề chính là những người nông dân và cuộc sống ở nông thôn Việt Nam. Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, viết về cuộc sống ngột ngạt của nhân dân ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
– Hình tượng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân tuy chỉ xuất hiện trong nửa cuối của câu chuyện nhưng lại để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về hình ảnh một người mẹ nghèo, nhân từ và yêu thương con cái. Diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong buổi sáng ngày hôm sau cũng như trong bữa cơm ngày đói đã được tác giả khắc họa thành công giúp cho người đọc cảm nhận được về nhân vật bà cụ Tứ hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, thương yêu con.
II. Thân bài:
1. Lai lịch xuất thân:
– Bà cụ Tứ là dân ngụ cư. Gia cảnh nghèo đói, túng quẫn.
– Bà có một anh con trai tên là Tràng, có ngoại hình xấu xí, tính tình thô kệt. Anh chưa có vợ.
2. Ngoại hình, phẩm chất:
– Bà xuất hiện đầu ngõ với tiếng ho húng hắng, dáng đi lọng khọng, vừa đi vừa lầm bẩm tính toán trong miệng. Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không kể mà dắt ta đến với bà cụ Tứ.
– Có biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến. Ta gặp lại dáng hình gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người đàn bà quen thuộc, lam lũ.
3. Diễn biến tâm lí:
– Nhà văn Kim Lân tâm sự: “Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ-mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật và giá trị nhân đạo của tác phẩm được Kim Lân thể hiện thành công qua diến biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau.
– Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ ngõ vào nhà. Khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường con trai bà, mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải. Tiếp đến, người mẹ già đáng thương ấy bật ra hàng loạt các câu hỏi khi thấy người đàn bà lạ ở trong nhà mình: “người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào đứng ngay ở đầu giường con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?…”.
– Khi hiểu ra sự tình, bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão lòng đang cuộn xoáy bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn.
– Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt. Bà động viên, an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót.
– Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng.
– Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về một tương lai tươi sáng phía trước.
– Sáng hôm sau: Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá.
– Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: Chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán-cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con-những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.
– Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem.
– Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng, cái chết đang bủa vây.
→ Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ-người mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.
4. Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
a. Giá trị hiện thực.
– Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, đó là khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945:
+ Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi, dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma.
+ Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào, âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết.
+ Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối.
+ Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát, cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt.
+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.
– Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn đói năm 1945.
– Tuy nhiễn, còn có một hiện thực được phán ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính xu thế, đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng.
b. Giá trị nhân đạo.
– Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ.
– Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.
– Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo.
– Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới tương lai tươi sáng.
III. Kết bài:
– Thành công về nghệ thuật: Xây dựng nhan đề đặc sắc, tình huống truyện độc đáo. Lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật. Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng. Nhân vật được khắc hoạ sinh động đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế. Ngôn ngữ: Bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kỹ lưỡng, có sức gợi và đậm chất Bắc Bộ.
– Ý nghĩa văn bản: Qua truyện “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn khẳng định: Trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, ngay cả khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc gia đình và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn.
Bài văn tham khảo 1:
I. Mở bài:
– Kim Lân là một cây bút có tài, các sáng tác của ông hướng vào chủ đề chính là nhưng người nông dân và cuộc sống ở nông thôn Việt Nam. Tác phẩm “Vợ nhặt” nằm trong tập truyện “Con chó xấu xí”, là bức tranh chân thực về nạn đói năm 1945, là sự ngợi ca tình người, tình mẫu tử, khát vọng sống.
– Nhân vật bà cụ Tứ là đại diện cho vẻ đẹp của những người nông dân, người mẹ Việt Nam.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu nhân vật.
+ Là một bà mẹ nghèo, già nua (lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già), là dân ngụ cư.
+ Ngoại hình: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.
2. Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ từ lúc Tràng dẫn vợ về nhà.
– Trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, “bà lão phấp phỏng”. Bà không hề hay biết chuyện anh con trai đã nhặt một người vợ về, thấy người đàn bà lạ trong nhà, bà rất ngạc nhiên: “quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” “người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “sao lại chào mình bằng u?”
– Sau tất cả sự ngạc nhiên, bà đã hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoèn đi”: Bà thương, buồn tủi cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm làm nồi … còn con mình thì …”. Bà cũng thấy hờn tủi cho chính mình, có lỗi với con trai bởi không thể lo được chuyện dựng vợ gả chồng cho con chu đáo. Bà cảm thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà, thương cho cả sự ngờ nghệch của đứa con trai: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được … ”
– Tâm trạng bà cụ Tứ buồn vui lẫn lộn, bà buồn vì thấy thương và xót xa cho con trai mình, người ta dựng vợ gả chồng cho con lúc gia đình ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì bổn phận làm mẹ bà chẳng lo lắng cho con được. Bà lo lắng liệu rằng chúng nó có nuôi nổi nhau cơn đói khát này không. Bà lo lắng liệu rằng có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt,… bà nghĩ tới ông lão nghĩ tới đứa con gái út, ngĩ tới cuộc đời khổ cực dài đằng đẵng của mình
– Bà mừng vì con trai đã yên bề gia thất: “các con đã phải duyên … u cũng mừng lòng”, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên” chấp nhận đứa con dâu vừa được nhặt về. Bà không khinh rẻ người đàn bà theo không con trai mình, ngược lại bà thấy thương xót người phụ nữ cũng vì hoàn cảnh đói khát người ta mới lấy đến con trai mình, con trai mình mới có vợ. Nén vào lòng tất cả, bà đang dang tay đón người đàn bà xa lạ làm con dâu mình: “ừ, thôi thì các con phải duyên, phải số với nhau, u cũng mừng lòng”. Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới, bà cụ Tứ đã nhen nhóm cho các con niềm tin, niềm hi vọng: “Tao tính khi nào có tiền mua lấy con gà về nuôi, chả mấy mà có đàn gà cho xem”.
– Bà cụ Tứ dần lo lắng cho cuộc sống các con sau này: “chúng nó có nuôi nhau sống qua được cơn đói khát này không”, “vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không”.
– Bà đối xử tốt với nàng dâu mới bằng sự cảm thông, trân trọng. Ân cần quan tâm con: “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”. Bà vui vẻ nói về tương lai với niềm lạc quan “biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Với bổn phận của người mẹ, bà nhẹ nhàng bảo ban các con làm ăn: “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có đàn gà cho xem”.
– Bà cụ Tứ là hiện thân của nỗi khổ cuộc sống. Người mẹ ấy đã nhìn cuộc hôn nhân éo le của con thông qua toàn bộ nỗi đau khổ của cuộc đời bà. Bà lo lắng trước thực tế quá nghiệt ngã. Bà mừng một nỗi mừng xót xa. Từ ngạc nhiên đến xót thương, nhưng trên hết vẫn là tình yêu thương. Cũng chính bà cụ là người nói nhiều nhất về tương lai rất cụ thể thiết thực với những gà, lợn, ruộng, vườn,rồi nồi cháo cám là phương tiện tiếp năng lượng của bà truyền cho hai đứa con nồi cháo cám bà gọi là chè khoán và vừa múc cháo vừa khen “ngon đáo để cơ”. Bà muốn các con tin về một tương lai không quá xa vời.
– Bà là người mẹ nghèo hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu, âm thầm hi sinh vì hạnh phúc của con, tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ nghèo Việt Nam. Hình tượng bà cụ Tứ chính là điển hình của người mẹ nông dân đôn hậu lòng yêu thương sâu sắc mà Kim Lân đã khám phá ra.
III. Kết bài:
– Cảm nhận riêng về hình tượng bà cụ tứ.
– Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, miêu tả tâm lí nhân vật nhuần nhuyễn, ngôn ngữ giản dị, gần gũi.
– Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.
Bài văn tham khảo 2:
Vẻ đẹp nhân vật bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” của Kim Lân
- Mở bài:
“Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Đi sâu khai thác những mảng tối của cuộc sống, Kim Lân phát hiện ra những điểm sáng trong tình người. Trong đói khổ cùng cực, người ta còn sẵn lòng chia sẻ cho nhau. Hình tượng bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khó nhưng có tấm lòng khoan dung và rộng lượng, thật đáng trân trọng.
- Thân bài:
Không phải là nhân vật chính, lại xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm nhưng bà cụ Tứ – mẹ của anh cu Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân đã góp phần làm cho tác phẩm sâu sắc hơn . Với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói deo dắt, Kim Lân muốn khắc hoạ số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám, thể hiện sự cảm thông, sẻ chia trước khát khao hạnh phúc của những số phận khốn cùng ấy. Sau tình huống nhặt được vợ, anh cu Tràng, chị vợ và người mẹ đường như trở thành người khác. Và bà cụ Tứ người mẹ nghèo đã bộc lộ tấm lòng sâu sắc của một người mẹ suốt đời những buồn đau, lo lắng đã đè nặng lên cuộc đời bà. Bởi thế nhân vật phụ này đã tạo lên một phần không nhỏ giá trị nhân văn của tác phẩm.
Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không kể mà dắt ta đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến. Ta gặp lại dáng hình gầy gầy, còng còng vì sương gió
Cuộc đời của người đàn bà quen thuộc. Từ “lọng khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình. Cái lẩm cẩm, chậm chạp theo nổi “phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thường của ông “con giai”, bà bước vào trong nhà. Khi thấy một người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà hết sức ngạc nhiên. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u ?”. Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không về một người vợ! Băn khoãn mãi khi hiểu ra, “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình”. Thương con để rồi tủi phận mình. “Chao ôi, người ta đựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì..”.
Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa. Việc trọng đại trong đời con, lẽ ra “làm được dăm ba mâm cơm mới phải”, nhưng “nhà mình nghèo quá”, nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ, không thực hiện được. Bà cụ thương con, tủi phận rồi lại thương dâu. “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được …” Vừa mừng tủi, vừa lo lắng, bà lo nỗi lo rất chính đáng của con người đã trải qua cuộc đời cực nhọc, đớn đau: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khái này không?”.
Nén nổi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…”. Bà nói với con dâu bằng giọng của người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót; “…Năm nay thì đói to đây. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…” “ bà nghẹn lời không nói được nữa…”. Nhưng ta hiểu, người con dâu bà lúc này rất hiểu bà, thấy thân thiết gắn bó với bà, thực sự coi bà là mẹ. Và nghĩa là “đám cưới” đã xong. Chẳng lễ nghi, không đưa đón, tấm lòng chân thật, nhân hậu của người mẹ nghèo đã thay thế tất cả. Đến đây ta cứ liên tưởng tới mẹ chồng Dần trong “Một đám cưới” của Nam Cao.
Người mẹ ấy “mở tài ăn nói”, nói rất nhiều, rất “ngọt ngào” để khoả lấp sự “không có nhiều liền”, làm “mát lòng mát ruột” cha Dần. Chao ôi, những người mẹ nông dân nghèo trước cách mạng là thế ư? Tình yêu thương con, ý thức trách nhiệm của người làm mẹ khiến họ cưới vợ cho con bằng tất cả những khả năng mình có thể, dẫu chỉ là lời nói…Nhưng nếu mẹ chồng Dần nói rất nhiều thì thì bà cụ Tứ lúc này chỉ nói rất ít. Bà khóc “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật của bà. Bà dành lời cho bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau – “toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này”, bà say sưa với các con những dự định cho tương lai…
Từ sự ngỡ ngàng đến thoáng im lặng, “hiểu ra biết bao cơ sự”, từ giọt nước mắt tủi phận nghèo, thương con dâu đến nổi lo lắng “không biết chúng có nuôi nhau sống nổi qua ihì đói không” đến niềm vui mừng, niềm tin vào tương lai…, tất cả đan xen, hiển hiện dưới ngòi bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lí tinh tế của bà cụ Tứ, thể hiện một cách tài tình trong từng suy nghĩ, từng hành động, lời nói. Lỗi lo xa cho tương lai, lối nhìn người mà ngẫm đến mình, tủi phận mình hay duy tâm của người già: “…chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo cho hết được?” tưởng đọc lên ta không thể không chắc chắn đó là lời của bà cụ Tứ. Quả là không thể lẫn đi đâu được cách nói, cách nghĩ vừa lẫn thẩn, vừa hồn hậu của người mẹ già nông thôn.
Tác giả vừa hoá thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lý vừa khách quan ghi lại. Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả sâu sắc tâm trạng nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết thoảng vào khét lẹt” mà “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc đời cuộc đời cực khổ đằng dặc của mình” để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của con: “liệu chúng nó có hơn bố mẹ chúng nó trước kia không?”.
Nghệ thuật “biện chứng pháp tâm hồn” đã thể hiện nhuần nhị trong từng biến thái tinh tế, phong phú của tâm lý người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có vốn sống phong phú đến mức độ nào mới có thể diễn tả một cách chân thực, tài tình đến vậy. Vợ nhặt không còn là những trang văn, đó là những trang đời – những trang đời thâm đẫm những giọt nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nổi lo cho tương lai và rạng rỡ trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tâm tư mà con rung cảm sâu sắc trước tâm, trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ.
Đọc truyện, có lẽ không ai quên được cách giấu giếm đầy ngượng ngập, vụng về về những dòng nước mắt xót thương con của bà lão: “Có đèn đấy à? ừ thắp lên tí cho sáng sủa…Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ…”. Bà đã cố nén sự xúc động của mình, đã cố nuốt những giọt nước mắt chát đắng xót xa vào trái tim vốn đã chát đắng xót xa vào trong trái tim vốn đã chát đắng của một đời tủi cực. Và khi ấy, trước đôi mắt nhòa lệ của người đọc, dòng “nước mắt cứ chảy ròng ròng” sau lời bộc bạch tâm tình với con dâu của bà lão lại hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết. Những giọt nước mắt trong suốt từ đôi mắt đục mờ. Những giọt nước mắt lấp lánh lòng vị tha cao quý của người mẹ. Những giọt nước mắt mặn mòi là muối của đất, là muối của trái tim yêu thương dạt dào như biển cả… Những giọt nước mắt lặn vào trong ấy đã hoá niềm vui chân thành trong xúc động “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”, trong tíu tít những dự định nào ngăn buồng cho đôi trẻ, nào mua đôi gà…
Để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời” này lại là người nói đến tương lai nhiều hơn tất cả. Không đơn thuần chỉ là tâm lí lạc quan khỏe khoắn của người lao động, đó là cả niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con của người mẹ nghèo. Có thể bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, tìm thấy ý nghĩa đời người trong sự chăm lo vun vén cho con. Và bởi vậy, những ước muốn, hy vọng đâu chỉ dành cho tuổi trẻ – nó trở nên đằm sâu, nồng thắm hơn trong tâm lòng của những người mẹ nghèo như bà cụ Tứ. Ai dám bảo bà mẹ lẩm cẩm, dớ dẩn? Ai dám cười những ước mong, dự định của bà? Cái gốc lạc quan, yêu thương không những không tàn héo đi mà ngược lại càng xanh tươi hơn trong mưa nắng cuộc đời. Tâm tính ấy làm ta xúc động, thấm thía bao điều… Tâm tính ấy khiến bữa cháo thành bữa tiệc, khiến nồi cháo “chát xít, nghẹn bứ trong miệng mà ngon ngọt trong lòng”.
Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng, vui vẻ khi bà lão “lễ mễ” bưng nồi cháo cám “nghi ngút khói” lên nhà, đon đả tươi cười múc cho con mà bảo: “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”. Phải, cái nồi cháo cám hèn hạ đành rồi, nhưng tấm lòng người mẹ quê ngẫm lại không đáng thương, đáng quý hay sao? Dường như bà cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức. Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa… Tội nghiệp thay niềm vui của bà lão – cái niềm vui không cất cánh lên được. Bởi, vẫn còn đó bát cháo cám, vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập khiến niềm vui không thể trọn vẹn… “Bà không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc” còn người đọc thì nhìn thấy rõ những giọt nước mắt trong lòng bà, thấy rõ những giọt nước mắt của Kim Lân khi viết những dòng này. Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng, Kim Lân đã để trái tim đập cùng một nhịp với trái tim người mẹ nông dân nghèo…
- Kết bài:
Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh người mẹ nghèo trong trận đói khủng khiếp 1945. Người mẹ nghèo tiền bạc nhưng giàu lòng yêu thương và hết mình vì con – người mẹ Việt Nam truyền thống. Đằng sau hình tượng bà cụ Tứ, ta thấy thấp thoáng những Lão Hạc, chị Dậu, mẹ Dần… những người sống tận lòng cho những người thân yêu của họ.
Bài văn tham khảo 3:
I. Mở bài:
Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, viết về cuộc sống ngột ngạt của nhân dân ta mà tiêu biểu là gia đình bà cụ Tứ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ngòi bút nhân đạo của Kim Lân vừa thể hiện ở sự phát hiện khẳng định vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau cái bề ngoài xác xơ vì đói khổ của nhân vật.
Trong ba nhân vật của truyện (bà cụ Tứ, Tràng và người đàn bà vợ Tràng), cụ Tứ, mẹ Tràng, là nhân vật có tâm trạng phức tạp mà nhân hậu vô cùng di thể hiện nổi bật nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động trong tác phẩm. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã diễn tả rất thành công trạng thái tâm lí đó
II. Thân bài:
1. Sự ngạc nhiên đến sững sờ khi thấy con trai dẫn người đàn bà về nhà.
Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy là việc con trai mình lấy vợ. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong. Tràng còn dám lấy vợ, rước thêm miệng ăn. Khi bà cụ đi làm về muộn, thấy người đàn bà ngồi ở đầu giường con mình rất ngạc nhiên, càng ngạc nhiên hơn khi được người đàn bà chào bằng u và được Tràng giới thiệu: “Kìa nhà tôi nó chào u”..”Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Bà ngạc nhiên đến mức không còn tin được vào mắt và tai mình : “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhòe thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu”.
2. Vừa mừng vui vừa thương cảm.
– Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt” được vợ, bà “cúi đầu nín lặng”. Bà liên tưởng đến bao cơ sự “ai oán”, “xót thương” cho số kiếp của đứa con mình. Bà liên tưởng đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, lòng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa.
– Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi vợ cho con. Giờ đây giữa lúc người chết đói “như ngả rạ” lại có người theo con trai bà về làm vợ. Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, đế trình làng khi con đã có vợ. Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu không biết làm sao vượt qua nỗi khó khăn này.
“Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!…” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bao nhiêu tình yêu thương chân thành tha thiết của người mẹ thể hiện trong những lời giản dị mộc mạc ấy.
– Bà cụ xót xa thương dâu, thương con, tủi phận mình: “bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Bao nhiêu lo lắng ngổn ngang trong lòng.
3. Nỗi lo.
Bà cụ Tứ lo lắng thực sự cho con trai, con dâu, lo cho cái gia đình nghèo túng của bà giữa lúc đói kém này liệu có nuôi nổi nhau? Tương lai rồi sẽ ra sao. Bà chấp nhận cái “hạnh phúc” éo le của gia đình. Ngẫm cái phận nghèo bà tự nhủ: “Có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được..”. Bà chỉ biết khuyên con, khuyên dâu thương yêu nhau, ăn ở hòa thuận với nhau để cùng vượt qua cơn khốn khó. Đó là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng sâu thẳm đối với mình. Trong sự lo lắng tủi hờn vẫn nhen nhóm một niềm tin.
4. Niềm tin.
– Trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui của cụ. Một niềm vui tội nghiệp không sao cất cánh lên được, cứ bị cái buồn, cái lo níu kéo xuống. Nhưng bà cụ Tứ cố vui và gắng làm cho con, cho dâu vui.
+ Vui trong ý nghĩ tốt đẹp về tương lai: “Rồi ra may mà ông giời cho khá…” ai giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói toàn: chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này”.
+ Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa. Bà cụ giẫy cỏ cho sạch vườn. “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa”.
+ Vui trong bữa cơm sáng, bữa cơm đầu liên có con dâu đó là một bữa “tiệc với món cháo loãng và món “chè khoái” đắng chát – một bữa ăn ngày đói rất thảm hại nhưng bà cụ cố tạo ra niềm vui để động viên an ủi con trai, con dâu.
– Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt đến tàn bạo đã đầy đọa mẹ con bà. Bà vẫn cố tạo không khí hòa thuận ấm cúng trong gia đình và kể chuyện làm ăn, nuôi gà tươi cười đon đả múc cho con dâu những bát cháo cám.
– Tuy nhiên cái vui ấy, dù là rất nhỏ bé mà vẫn mong manh, vẫn chìm đi trong cái tăm tối hiện tại: Tiếng khóc, mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết đói. Bà cụ nghĩ đến ông lão, đến đứa con út, đến cuộc đời cực khổ dài dặc dặc của mình, đến cái “đói to” trước mắt. Bà cụ phấp phỏng nghĩ về con trai, về con dâu.
– Nhân vật bà cụ Tứ mang nét đạo lí truyền thống:
+ Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với “cái mặt bủng beo, u tối” bà vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh liệt. Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, hiểu biết: hết lòng thương yêu con, yêu thương những cảnh đời tội nghiệp, oái oăm. Bà nung nấu một khái vọng về cuộc sống gia đình hạnh phúc.
III. Kết bài:
– Qua nhân vật bà cụ Tứ, với những diễn biến tâm trạng phức tạp – dưới ngòi bút nhân đạo của Kim Lân – nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động của “Vợ nhặt” đã động chạm đến nơi sâu thẳm nhất của lòng người, bắt độc giả phải khóc, phải cười, phải sống cùng nhân vật của mình.
Bài văn tham khảo 4:
- Mở bài:
Nói đến văn học là nói đến một phạm trù không giới hạn của nghệ thuật, có khả năng gợi mở mọi chiều kích của các giác quan và trường liên tưởng, thì với tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân ta không chỉ biết đến một anh Tràng thô nhám, cục mịch đến ngượng nghịu, ngẩn ngơ như một đứa trẻ lớn hiền lành, một chị vợ “chao chát, chỏng lỏn” mà “hiền hậu, đúng mực”, ta còn biết đến một nhân vật giữ cho câu chuyện “Vợ nhặt” có chiều sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm. Đó là bà cụ Tứ. Càng đọc, càng ngẫm nghĩ, ta càng cảm nhận sâu sắc tấm lòng của người mẹ nông dân trong cơn đói thảm họa này.
- Thân bài:
Bà cụ Tứ là một nhân vật phụ xuất hiện ở phần giữa thân truyện “Vợ nhặt”. Nhưng nếu không có nhân vật này, chắc chắn tác phẩm sẽ không còn hấp dẫn, hoặc sẽ hấp dẫn theo một cách khác… Bà cụ Tứ đã giữ cho câu chuyện “Vợ nhặt” có chiều sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm. Viết “Vợ nhặt” với tình huống anh cu Tràng nhặt được vợ, Kim Lân muốn thể hiện số phận bi thảm của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám và lòng khao khát tới hạnh phúc của họ. Xây dựng nhân vật bà lão, dường như nhà văn muốn hướng người đọc nhìn việc lấy vợ của Tràng từ một góc độ khác, trong một tâm trạng khác. Nhưng đọc tác phẩm, càng ngẫm nghĩ ta càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng người mẹ nông dân nghèo trước cách mạng. Điều này có lẽ nằm ngoài ý đồ sáng tạo ban đầu của tác giả. Sự kì diệu của nghệ thuật chính là ở đó. Lòng kính trọng người mẹ, kính trọng người già và nỗi đau khổ suốt đời đè nặng lên con người đã tạo nên tầm bao quát và sức sống của nhân vật bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng “lòng khòng”,khẽ mắt “lèm nhèm”,”khuôn mặt bủng beo, u ám”. Những hành động cử chỉ của bà “nhấp nháy hai con mắt”,”chậm chạp hỏi”, “lập cập bước đi”, “lật đật:, “lễ mễ”đều toát lên tất cả các nét của bà là một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ nữ ấy còn bị đặt trong hoàn cảnh nghèo nàn, đói khổ mà bà nói “cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng”.
Chân thật là “điểm đi” và cũng là “điểm đến” của nghệ thuật chân chính. Sức sống của nhân vật cũng do yếu tố này quyết định. Bởi khi sống với nhân vật, ta như được sống với thế giới tâm hồn “thật hơn cả con người thật”. Đến với nhân vật bà cụ Tứ, nhiều lúc ta có cảm giác như bà “hấp háy cặp mắt” bước từ căn nhà rúm ró, tồi tàn của mình mà bước vào trang truyện chứ không hề do dụng công xây dựng của tác giả, một nhân vật không hề có nét nào của việc “tô son đánh phấn”. Vâng, làm sao có thể nghi ngờ được điều đó khi ta chứng kiến những diễn biến tâm lí đầy tinh tế, khi ta lắng nghe những lời nói tưởng dớ dẩn, lẩm cẩm mà xiết bao ân tình của người mẹ nông dân nghèo…
Nhà văn Kim Lân đã chú ý miêu tả diễn biến tâm lí cảu bà cụ Tứ. Nếu diễn biến tâm trạng của Tràng và vợ Tràng được nhà văn miêu tả theo một đường thẳng thoáng lo âu buồn tủi rồi đi ngay đến niềm vui bất tận, thì bà cụ Tứ được Kim Lân miêu tả tâm trạng gấp khúc, đan xen nhiều tâm trạng từ quá khứ đến hiện tại và hướng tới tương lai. Bà cụ Tứ được đặt trong hoàn cảnh là con trai mình đột ngột có vợ. Tình huống này khiến bà vừa vui vừa buồn, vừa lo lắng lại vừa hy vọng. Và tinh tế, người đọc sẽ dễ dàng nhận thấy hai mặt trong tâm trạng của bà mẹ nghèo khổ ấy: Bề nổi mẹ luôn nói những chuyện vui, mong ước về tương lai tươi sáng để gieo lên niềm tin cho các con, nhưng bề chìm, chiều sâu của tâm trạng là nỗi lo lắng, tủi hờn và những giọt nước mắt chảy ngược vào trong mẹ đã giữ lại để riêng cho mình. Lòng bao dung và đức hi sinh của bà mẹ ấy cũng giống như bao người mẹ Việt Nam. Nhân vật duy nhất trong thiên truyện này có ý che lấp hiện thực phũ phàng chính là bà cụ Tứ. Nó đau đớn vụng về như chính lúc bà quay đi che dòng nước mắt của mình cho các con khỏi nhìn thấy.
Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không kể mà dắt ta đến với bà cụ Tứ. Khi mới về đến nhà, bắt đầu là cái dáng “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến. Phải chăng sau một ngày đi làm thuê kiếm sống chưa đủ mưu sinh, còn bao lo toan cho gánh nặng cơm áo để đầu óc người mẹ ấy không một phút thảnh thơi. Ta gặp lại dáng hình gầy còng vì sương gió cuộc đời của người mẹ nghèo thân thuộc. Từ “lọng khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình, một dáng vẻ gầy guộc, còm cõi, lưng còng, bóng ngả. Cái bóng còng của bà cụ Tứ càng ngả hơn khi xuất hiện trong buổi chiều hôm đầy chạng vạng. Cái xế chiều của một đời người gặp cái xế chiều của một ngày tàn như gợi lên sự chua xót hơn cho những thân phận nghèo khổ trọn vẹn cả kiếp người. Cái lẩm cẩm, chậm chạp theo nỗi “phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thường của ông “con giai”,bà bước vào trong nhà. Khi thấy một người đàn bà lạ đứng ngay ở đầu giường con mình, bà hết sức ngạc nhiên. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà. “Nguời đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?”. Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không về nhà một người vợ! Nỗi băn khoăn bởi trong hoàn cảnh ấy, với anh con trai thô kệch và gia cảnh của mình là hoàn toàn hợp lí. Đúng ra, khi con cái trong nhà đến tuổi dựng vợ gả chồng, người mẹ nào cũng đủ tinh tế để nhận ra và hiểu chuyện khi thấy con dắt một cô bạn gái về. Nhưng chính cái đói, cái nghèo đã làm người mẹ này mất đi khả năng nhạy cảm thiên phú ấy. Bởi hơn ai hết bà hiểu gia cảnh của mình. Con mình nghèo làm sao lấy nổi vợ. Thật chua xót cho những kiếp lầm than, đến cả hạnh phúc nhỏ nhoi, bình thường họ cũng đánh rơi mất.
Khi đã hiểu ra cơ sự, “bà lão cúi đầu nín lặng”. Cái cúi đầu của con người bởi nỗi khổ đeo bám suốt cuộc đời, giờ đến khi gần đất xa trời mà cũng không lo được cho con một mái ấm. Sự xót thương, tủi hờn cho mình, cho con trai và cho cả con dâu. Bà vừa “ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình”. Thương con để rồi tủi phận mình. “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa. “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”, lý trí đã không ngăn nổi tình cảm. Kim Lân như một nhà quay phim tài ba đầy cảm xúc lia ống kính máy quay của mình chớp lấy thần cảnh, thước phim từ cận cảnh làm hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim một đời vất vả của người mẹ già, và trên cái khoé mắt nứt nẻ theo thời gian ấy rạn ra hai dòng nước mắt khô héo.
Thời gian là kẻ khách quan và quá đỗi vô tình, nó đã mang đi tuổi thanh xuân của mẹ cùng bao lo toan, nhọc nhằn, vất vả đã vắt kiệt sức mẹ. Mẹ khó có thể khóc được nữa, bởi “nước mắt người già chảy ngược vào tim”. Khi mẹ khóc tức là mẹ đang đau lắm. Việc trọng đại trong đời con, bà cũng ý thức lẽ ra “làm được dăm ba mâm mới phải”, nhưng “nhà mình nghèo quá”, nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ, không thực hiện được và bà đau, bà tủi.
Dù tủi thân và cay đắng nhưng bà thương và thông cảm cho con dâu. Quên làm sao được cử chỉ ân cần mà xiết bao thương mến của mẹ với con dâu, ta tưởng như có cái vẫy tay đầy thân thương sau câu nói này: “con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Quan hệ mẹ chồng nàng dâu trong mỗi gia đình không mấy khi được hòa hợp, huống chi đây lại là cô con dâu không được hỏi cưới đàng hoàng. Cứ ngỡ tưởng bà mẹ ấy sẽ coi thường, hắt hủi người dâu nhặt. Nhưng chúng ta đã thật sự ngỡ ngàng trước những lời nói, cử chỉ ôn tồn của bà mẹ nghèo này. Còn đâu là ranh giới giữa mẹ chồng – nàng dâu? Hay tình yêu thương đã xoá nhoà đi tất cả. Tình yêu ấy dâng lên nghẹn ngào khi bà cụ Tứ nói trong nước mắt: “kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo… lấy nhau lúc này u thương quá….”. “Lúc này” ở đây chính là thời điểm năm 1945 – cái mốc in dấu một nạn đói khủng khiếp đã đi vào lịch sử: “hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói” (Tuyên ngôn độc lập), câu nói ấy vẫn còn vang lên như một chứng tích tội ác của giặc, không khí quê hương “vẩn lên một mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, “dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”. Ấy vậy mà, “như bèo gặp nước”, vợ chồng Tràng đã đến với nhau đánh cược cùng cuộc đời, cùng cái đói, cái chết. Thử hỏi sao lòng người mẹ không đau. Bà chỉ biết khuyên vợ chồng Tràng thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận để cùng vượt qua cơn bĩ cực này. Đó là nỗi cảm thông của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng yêu con sâu thẳm…
Bà cụ thương con, tủi phận rồi lại thương dâu. “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…” bằng sự cảm thông sâu sắc. Bà hiểu ra căn nguyên, ngọn nguồn của mọi vấn đề chính là cái đói. Nó hủy hoại con người bằng cách cướp đi mạng sống nhưng đồng thời trước sự hủy diệt ghê gớm của nó đã tạo ra một sợi dây vô hình gắn kết mọi người lại với nhau để sống và sống thật ý nghĩa: Tràng có hạnh phúc gia đình, thị có chỗ bấu víu để hi vọng có sự sống dù là mong manh, bà cụ Tứ có con dâu mới. Tất cả đang mở ra một tương lai phía trước dù tương lai ấy đang mờ mịt, bế tắc bởi sự đe dọa bởi cái chết luôn rình rập.
Bà lo lắng cho cuộc sống và tương lai của các con. Vừa mừng tủi, vừa lo lắng, bà lo nỗi lo rất chính đáng của con người đã trải một đời cực nhọc, đớn đau: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Nếu qua được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó. Và bà cũng nghĩ đến trường hợp xấu nhất nếu xảy ra là ông trời bắt chết thì cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết cho được. Không hiểu trong đầu của bà mẹ nghèo kia đã trải qua bao suy nghĩ trong những mảng sáng tối để rồi dừng lại ở một suy nghĩ bị đeo đẳng bởi hiện thực khắc nghiệt. Cái đói, cái chết không phải lởn vởn mà nó luôn hiện hữu ở mọi ngõ ngách trong suy nghĩ của con người.
Bởi nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lai. “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…”. Nhưng không phải ngẫu nhiên Kim Lân lại để ngay khi nghĩ về viễn cảnh tương lai tươi sáng lại là ánh mắt đăm đăm của bà khi nhìn ra ngoài để bao trùm lấy hai con mắt là cánh đồng mênh mông bóng tối. Là mùi đống rấm khét lẹt của những nhà có người chết thoảng vào. Lại là gánh nặng của hiện thực không thể phủ nhận và chạy trốn. Không lẫn đi đâu được cách nói, cách nghĩ vừa lẩn thẩn, vừa hồn hậu của người mẹ già nông thôn. Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lí vừa khách quan ghi lại. Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả sâu sắc tâm trạng nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết thoảng vào khét lẹt” mà “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc đời cực khổ dằng dặc” của mình để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của con: “Liệu chúng nó có hơn bố mẹ chúng nó trước kia không?”. Nghệ thuật “biện chứng tâm hồn” đã thể hiện nhuần nhị trong từng biến thái tinh tế, phong phú của tâm lí người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có vốn sống phong phú đến mức nào mới có thể diễn tả một cách chân thực, tài tình đến vậy. “Vợ nhặt” không còn là trang văn, đó là những trang đời – những trang đời thấm đẫm những giọt nước mắt tụi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho tương lai và rạng rỡ lạc quan thắp lên trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tâm lí mà còn rung cảm sâu sắc trước tâm tình tha thiết của người mẹ,
Bà nói với con dâu bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót: “… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. “Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa…”. Nhưng ta hiểu, người con dâu bà lúc này sẽ rất hiểu bà, thấy thân thiết gắn bó với bà, thực sự coi bà là mẹ. Và nghĩa là “đám cưới” đã xong. Chẳng lễ nghi, không đưa đón, tấm lòng chân thật, nhân hậu của người mẹ nghèo đã thay thế tất cả. Đến đây, ta cứ liên tưởng tới mẹ chồng Dần trong “Một đám cưới” (Nam Cao). Người me ấy mở “tài ăn nói”, nói rất nhiều, rất “ngọt ngào”để khỏa lấp cái sự “không có nhiều tiền”, làm “mát lòng mát ruột” cha Dần. Chao ôi, những người mẹ nông dân nghèo trước cách mạng là thế ư? Tình yêu thương con, ý thức trách nhiệm của người làm mẹ khiến họ cưới vợ cho con bằng tất cả những khả năng mình có thể, dẫu chỉ là lời nói… Nhưng nếu mẹ chồng Dần nói rất nhiều thì bà cụ Tứ lúc này lại nói rất ít. Bà khóc. “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật.
Đọc truyện, có lẽ không ai quên được cái cách giấu diếm đầy ngượng ngập, vụng về những dòng nuớc mắt xót thương con của bà lão: “Có đèn đấy à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa… Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ…“. Bà đã cố nén sự xúc động của mình, đã cố nuốt những giọt nước mắt chát đắng xót xa vào trong trái tim vốn đã chát đắng của một đời tủi cực. Và khi ấy, trước đôi mắt nhòa lệ của người đọc, dòng “nước mắt cứ chảy ròng ròng” sau lời bộc bạch tâm tình với con dâu của bà lão lại hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết.
Thành công của việc xây dựng tâm lý bà cụ Tứ nói riêng và tác phẩm Vợ nhặt nói chung là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn; cách miêu tả tâm lý nội tâm nhân vật sắc sảo; nghệ thuật tạo tình huống truyện độc đáo để các nhân vật bộc lộ phẩm giá của mình. Tất cả đã tạo nên giá trị hiện thực và nhân đạo sắc sảo. Một mặt tác giả tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân, phong kiến và phát xít đã đẩy dân tộc ta vào nạn đói khốn cùng làm chết hơn hai triệu con người. Một mặt tác giả ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn Việt, dù trong hoàn cảnh nào, con người Việt Nam vẫn luôn yêu thương, cưu mang đùm bọc nhau hướng vào tương lai, hi vọng trông chờ.
- Kết bài:
Kim Lân đã dựng lên “hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945″. Một người mẹ hết lòng yêu thương con, hi sinh tất cả vì con. Nhà văn không cố ý xây dựng bà cụ Tứ thành một nhân vật điển hình nhưng bằng tài năng, bằng vốn sống, bằng tình cảm thiết tha, trìu mến đối với tấm lòng người mẹ đã khiến hình ảnh bà cụ Tứ trở nên chân thật và cảm động hơn bao giờ hết. Chính người mẹ già ấy là ánh sáng của thiên truyện ngắn, đằng sau cái bóng tối bi thảm của những kiếp đời nghèo khổ? Nhân vật cũng góp phần thể hiện rõ cái nhìn đầy nhân ái của nhà văn về con người: “Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. Ánh sáng ấy làm câu truyện trở nên thấm thía, cảm động hơn, nâng truyện ngắn “Vợ nhặt” lên tầm cao, mang chiều sâu của một truyện ngắn hiện thực – nhân bản.
Bài văn tham khảo 5:
Trong “Thế giới văn chương” Đặng Tiến từng khẳng định: “Nghệ thuật tạo vẻ đẹp cho những dòng nước mắt và biến nỗi thống khổ của nhân loại thành tiếng hát vô biên”. Mỗi trang viết là những trang đời thấm đẫm nỗi xót xa, tủi nhục, nỗi thống khổ của con người trong kiếp đời lầm than. Và rồi từ những khổ đau, nghệ thuật cất lên tiếng nói tri ân, tiếng nói đồng điệu với tâm hồn con người. Đọc những trang văn viết về cuộc đời của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” của Kim Lân ta thêm một lần đau đáu cho kiếp người, giữa cái đói và gam màu xám xịt, u tối của bức tranh hiện thực năm 1945, nhà văn đã lấy ngòi bút của mình để nâng niu vẻ đẹp tâm hồn con người dưới ánh sáng của niềm tin, khát vọng. Khắc họa nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân đã đưa ngòi bút của mình vào những điểm nhìn tâm lí đặc sắc về nhân vật này từ “Cái cúi đầu nín lặng” đến khi “Nước mắt cứ chảy ròng ròng”.
Nhắc đến Kim Lân giới độc giả nhớ ngay tới một nhà văn được xem như “con đẻ của đồng ruộng”. Một cây bút tài hoa chuyên viết về nông thôn và đồng bằng Bắc Bộ. Những tâm tình ông gửi về làng quê của đâu đâu cũng là đất, là hương vị, là nếp sống của những người nông dân chân quê thật thà, chất phác, đôn hậu. Nhà văn Nguyên Hồng từng dành những yêu thương cho nhà văn Kim Lân khi nhận xét: “Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với đất, với người với thuần hậu nguyên thủy nông thôn”, ông là mẫu nhà văn “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa” – “viết kĩ lưỡng, viết từ gan ruột không chấp nhận sự nhạt nhẽo, giả tạo” (Đỗ Kim Hồi). Sự nghiệp sáng tác của ông không nhiều nhưng đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị “Vợ nhặt” là một tác phẩm như thế! “Vợ nhặt” được coi là một kiệt tác trong sự nghiệp sáng tác của Kim Lân, cũng như là một truyện ngắn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Tiền thân của “Vợ nhặt” là một chương trong tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” viết ngay sau 1945. Tới năm 1954, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để hoàn thành truyện ngắn này.
Văn học là cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát cũng là đích đi tới của văn học. Và có lẽ, nếu ngòi bút của người nghệ sĩ không chấm vào nghiên mực cuộc đời thì sẽ không đẻ ra những tác phẩm mang đậm dấu ấn thời đại đến vậy. Trong cái gam màu u tối, xám xịt của bức tranh nông thôn Việt Nam năm 1945 – cái năm mà cái đói hoành hành như một cơ lốc tố nhấn chìm con người vào cõi bi thương. “Vợ nhặt” của Kim Lâm lúc bấy giờ như một tia chớp lóe lên giữa màn đêm tối của đói nghèo, khổ đau. Với bút pháp hiện thực đặc sắc Kim Lân đã miêu tả sự hiện hình của cái đói giống như một thảm họa, càn quét hủy diệt mọi sinh linh. Từ âm thanh, mùi vị, hình ảnh đều làm sống dậy hình ảnh làng quê Việt Nam giống như chốn địa ngục trần gian, đâu đâu cũng là mùi gây của xác người chết như ngả rạ, gây ấn tượng về một cõi dương sặc mùi âm khí. Tuy vậy, nhà văn vẫn làm bật lên trong những con người lầm lũi đi trong bóng đêm ấy “Dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên là cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người”. Kim Lân đã để chân lí ấy sống trong nhân vật bà cụ Tứ.
Nhà văn Betong Brecht cho rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống mà là hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả”, xây dựng nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân không đi sâu vào khái quát dáng vẻ bên ngoài mà tập trung đi sâu vào những nét đẹp tâm hồn làm nổi bật phẩm chất cao quỳ của người mẹ già, nghèo khổ thương con. Bà cụ Tứ nay đã “gần đất xa trời” nhưng vẫn phải sống chuỗi ngày nghèo khổ, túng thiếu, lại là dân ngụ cư, bấp bênh trôi nổi; chồng mất sớm, con gái út đi lấy chồng xa, chỉ còn lại người con trai là anh cu Tràng lại ngờ nghệch. Hai mẹ con yêu thương đùm bọc cùng nhau sống trong “tấm phên rách” nằm “rúm ró trên mảnh vườn lổn nhổn những búi cỏ dại”.
Kim Lân đã rất khéo léo khi lựa chọn thời điểm “vàng” để bà cụ Tứ xuất hiện, không phải ở đầu câu chuyện mà lại ở cuối, khi tất cả sự sống và cái chết đã rõ mồn một ngay từ đầu. Bà xuất hiện khi Tràng đưa người vợ về nhà ra mắt. Đó cũng là lúc diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ thay đổi liên tục. Vào một buổi chiều chạng vạng, bà cụ trở về căn nhà tồi tàn của mình và vô cùng bất ngờ trước trước sự xuất hiện của một người đàn bà lạ trong nhà. Nhìn thấy sự sốt sắng hiện ra rõ nét trên gương mặt con trai mình bà không khỏi ngạc nhiên, băn khoăn, phấp phỏng, lo âu. Cho tới khi Tràng giãi bày câu chuyện hệ trọng của đời mình, người mẹ nghèo khổ ấy mới vỡ lẽ và ngổn ngang bao cảm xúc.
Miêu tả nhân vật bà cụ Tứ, ngòi bút của Kim Lân ngưng đọng những câu văn trên giấy, nhưng là giọt nước mắt đọng trên khóe mắt người đọc, và sự xót thương đến nghẹt thở trong lồng ngực những người tôn thờ chủ nghĩa nhân đạo. Kim Lân không dùng thêm bất kì một câu văn nào tả những suy nghĩ hay lời căn dặn hay cả những hành động có tác động đến tâm lí mà đơn giản chỉ là cái “cúi đầu nín lặng”. Không đơn thuần chỉ là câu văn trần thuật, mà trong câu văn ngắn này còn rưng rưng cho một tấm lòng hoài cảm đầy ân tình của nhà văn Kim Lân. Cái cúi đầu ấy chất chứa biết bao suy nghĩ, cả những nỗi niềm không thể nói thành lời. Có chút gì đó chua xót, chút gì đó tủi hờn, và cả những nghẹn ngào khiến người mẹ nín lặng bởi câu chuyện con trai vừa giãi bày. Cái im lặng đầy tủi phận, cam chịu và xót xa. Cả cuộc đời dài dằng dặc “cõng nắng nuôi con”, người mẹ nhanh chóng thấu hiểu sự tình, “bà lão hiểu rồi”, bà lão hiều vì sao hôm nay con trai mình hệt như một đứa trẻ chờ mẹ đi chợ về. Bà lão hiểu vì sao lại có người đàn bà lạ trong nhà. Sự từng trải đã giúp bà thoát ra khỏi sự chậm chạp của một con người già để lập tức hiểu ra “hiểu ra biết bao cơ sự”, cơ sự của con trai, người đàn bà kia và cũng là cơ sự của chính mình.
Cùng với sự thấu hiểu là niềm ai oán, xót thương, bà thương xót “cho số kiếp đứa con mình” chịu nhiều lao khổ, thiệt thòi. Biết bao cảm xúc lúc ngày kéo dài, nằm ngổn ngang trong lòng người mẹ già, hỗn độn cả trong lòng người đọc, nhưng tuyệt nhiên lại rất ngắn về số câu chữ. Kim Lân đã làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của bà cụ Tứ, vẻ đẹp của một người mẹ luôn yêu thương, bao dung, lắng nghe và thấu hiểu con.
Từ thương con bà hướng về chính mình: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Từ cảm thán “chao ôi!” đứng đầu câu tạo giọng điệu than oán, chua xót kéo dài, bao trọn cả tâm tưởng của bà cụ Tứ. Bà không khỏi chạnh lòng khi nghĩ đến người ta, rồi ngầm so sánh với chính mình, bởi chuyện dựng vợ gả chồng cho con là chuyện hệ trọng của đời người. Bà xót xa ao ước giá gia đình có điều kiện bà sẽ lo cho con một cái đám cưới chu toàn, đầy đủ lễ nghi thế theo đúng phong tục cha ông. Nhưng biết làm sao cho được, khi gia cảnh của bà, đến miếng ăn cho đàng hoàng cũng chẳng nổi. Khó khăn, khốn cùng đã “bóp nát” cái gọi là trách nhiệm của một người mẹ với con. Bao nhiêu tủi cực, nghẹn ngào chua xót, đắng cay cùng cực nén ép lại sau chữ “thì” vô vọng ấy. Dấu chấm lửng cuối câu văn “…” thể hiện sự ngẹn ngào, bất lực. Dấu chấm lửng ấy, là một tiếng thở dài đây tâm trạng của người mẹ già có tâm nhưng lại không đủ sức. Nếu cho rằng “Văn chương là lịch sử tâm trạng con người thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩ ấy”. (Trần Ninh Hồ).
Nhà văn Nam Cao từng quan niệm: “Nước mắt là giọt châu của loài người”. Ở đây nhà văn của nông thôn Bắc Bộ đã cho ta thấy giọt châu, hạt ngọc trong tâm hồn người hồn người mẹ qua những giọt nước mắt hiếm hoi: “Trong kẽ mắt kèm nhèm rỉ xuống hai dòng nước mắt”, lí trí đã không thể ngăn nổi tình cảm, bà khóc vì thương con và tủi nhục cho chính mình. Kim Lân đã như một nhà quay phim tài ba khi lia ống kính của mình chớp lấy những nét thần tình đó là những thước phim cận cảnh làm hiện lên đôi mắt hằn in dấu chân chim, gió sương, nắng mưa, vất vả cả một đời của người mẹ già. Và trong cái kẽ mắt nứt nẻ theo thời gian ấy rạn ra một dòng nước mắt khô héo.
Điều đáng ngẫm bà cụ Tứ mang lại ở đây, là tấm lòng thương con, xót con của bà không chỉ dành riêng cho số kiếp của đứa con mình mà với tấm lòng nhân hậu, bao dung, vị tha bà còn thương cả người đàn bà xa lạ bị hoàn cảnh xô đẩy mới thành con dâu mình. Không cần phải gật đầu đồng ý, hay dưa ra lời đồng tình. Bà trăn trở, sợ trăn ở ấy hiện lên qua ánh mắt đăm chiêu: “… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”, suy nghĩ đó đã minh chứng cho sự đồng tình của bà về sự có mặt của người đàn bà xa lạ. Bà chấp nhận người vợ nhặt là thành viên trong gia đình nên lo lắng cho hạnh phúc của chúng nó giữa cảnh khốn cùng.
Và rồi “bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà” tiếng thở dài nhè nhẹ ấy không phải là sự trách móc hay coi khinh người đàn bà xa lạ đang cố bấu víu con trai bà, mà là tiếng thở của bao lo toan chất chứa cả một đời. Bà “đăm đăm” nhìn người đàn bà như để nhìn người bạn sẽ đồng hành cùng mình trong cuộc đời khổ cực phía trước. Và cũng từ đó trong suy nghĩ của người mẹ ấy như đã thức dậy bao ý nghĩ nhân đạo và cả sự hàm ơn: Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con…”, những lời độc thoại trút từ ruột từ gan ấy cuộn trào, dâng ngập lên trong lòng người mẹ vừa khắc khoải,vừa dào dạt, vừa bao la, vừa đong đầy tình mẫu tử, hòa vào trong đó là những rung cảm xót thương từ trái tim nhân đạo của Kim Lân.
Nhưng suy nghĩ đời thường mà đôn hậu yêu thương của bà cụ Tứ khiến trái tim người đọc thổn thức cùng với những trăn trở bình dị và xiết bao ân tình. Hai chữ “mừng lòng” của bà lão nói ra với con. Chữ “mừng” thật là đắc địa. Nó lột tả đúng cái run run của một tấm lòng vị tha cao quý đang ngượng ngập, vụng về tìm cách giấu đi giọt nước mắt xót thương vì sợ phiền lòng cho các con của chính người đang thương xót. Người mẹ già như cố nuốt nước mắt vào trong, cố nén nỗi đau trong lòng để tình yêu thương của mình an ủi đôi vợ chồng trẻ. Người mẹ ấy chẳng muốn con buồn, chẳng muốn con đau, chỉ mong con hãy hưởng trọn vẹn hạnh phúc lứa đôi. Quên làm sao được cử chỉ ân cần mà thương mến của mẹ chồng nói với con dâu: “Con ngồi xuống đây. Nguồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”, câu nói ấy đã xóa bỏ mọi ranh giới giữa mẹ chồng – nàng dâu, nhường chỗ cho tình yêu thương, sự bao dung của người mẹ già.
Để rồi “bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót” người mẹ nghèo khổ ấy thấu hiểu bao nỗi lòng của đứa con dâu mới. Những e thẹn, tủi hổ ấy có lẽ bà đã từng trải qua trong cái tuổi trẻ của chính mình, “Bà thấp giọng thân mật”: “Kể có ra làm được ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo con ạ!”, đâu còn sự ngỡ ngàng, kinh ngạc như lúc có người đàn bà lạ trong nhà, lời nói ấy chính là những lo lắng cho người con dâu mới, lo lắng cho hạnh phúc đôi trẻ. Bà tiếp lời: “Cố làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Còn điều gì cao quý và thiêng liêng hơn tình mẹ. Kim Lân đã thật sự nung đốt lên trong tâm hồn chúng ta tình mẫu tử thiêng liêng và cao quý. Quả thật, không có kì quan nào đẹp đẽ mà trường tồn bất tử hơn tình mẹ. Nghệ thuật xét đến cùng là “nâng đỡ tâm hồn con người” để con người không sa xuống thành con vật hay ông thánh vô duyên vô bổ.
Lep-ton-xtoi từng khẳng định: “Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu”. Tình yêu chính “là ngọc đọng, là phiến kì nan trong rừng trầm hương”; là tinh hoa trong vườn hương thảo”; kết tinh nên tình cảm được hun đúc bằng tâm hồn người nghệ sĩ trước những rung cảm của cuộc đời. Cho nên, trong nỗi lo lắng, băn khoăn về hạnh phúc lứa đôi, người mẹ ấy kẹt lại trong tình thương và khao khát hạnh phúc. Bà “nghẹn lời không nói được nữa” bao nhiêu nỗi lo lắng cứ tích tụ lại, nghẹn ứ nơi cổ họng. Nỗi lo mà không thể nào tan đi không thể nào thả trôi, nào dễ ai thấu cho cam. Phó mặc cho cảm xúc làm chủ “nước mắt bà cứ chảy ròng ròng…”. Nếu ở trên, Kim Lân miêu tả giọt nước mắt “rỉ xuống hai kẽ mắt kèm nhèm” chảy ngược vào trong, thì ở đây nó đã tuôn trào cho những suy tư của người mẹ già. Những dòng nước mắt tuôn chạy “ròng ròng” như sự giải thoát của tâm trạng và cảm xúc. Bà khóc vì thương mình, cũng vì thương cho đứa con trai và nàng dâu mới. Có ai đó đã từng nói: Trên đời này thứ chân thật nhất chính là đôi mắt của một người. Đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn, là tiếng lòng “hồn nhiên nhất”; “đồn hậu nhất”. Người mẹ ấy đã sống một đời trọn vẹn đủ đầy vì con.
Nếu ta đã từng xót xa hình ảnh cái đói trong “Một bữa no”, con người vì đói quá nên khi được ăn đã ăn nhiều quá mà chết; Hay cái hình ảnh bế tắc của chị Dậu vùng chạy ra khỏi nhà trong cái cảnh trời tối đen như mực trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố; hoặc ám ảnh cái dáng đi ngật ngưỡng của Chí Phèo phải tự kết liễu cuộc đời mình trên bàn xoay của chế độ để tìm nhân tính trong những trang viết của Nam Cao ta mới thật sự ngỡ ngàng đi đọc văn của Kim Lân. Trong đau khổ, bất hạnh và tối tăm Kim Lân vẫn nâng con người lên trong tình nhân ái. Hình ảnh bà cụ Tứ chính là ánh sáng le lói trong bóng tối của những kiếp người nghèo khổ. Nhân vật bà cụ Tứ đã làm cho giá trị nhân đạo của tác phẩm trở nên thấm thía và cảm động hơn.Hình ảnh bà cụ Tứ mang thông điệp nhân bản hơn: Dù kề bên cái đói, cái chết con người vẫn không bị mất đi vẻ đẹp bản chất lương thiện của mình. Vẫn luôn khát khao hạnh phúc vẫn không thôi mong ước mề tương lai tươi sáng và tốt đẹp.
- Kết bài:
“Mỗi tác phẩm nghệ thuận phải là một phát minh về hình thức một khám phá về nội dung”, Kim Lân đã khám phá, phát hiện và miêu tả nhân vật bà cụ Tứ bằng cách luồn lách ngòi bút vào đến tận nơi sâu thẳm của tâm hồn, bắt người đọc phải cùng cười, cùng khóc với nhân vật của mình. Nhà văn đã miêu tả thật sâu sắc tâm lí ấy qua một hệ thống ngôn ngữ giản dị nhưng giàu sức gợi, thể hiện qua từng lời nói, cử chỉ, hành động. Phải là nhà văn có vốn hiểu biết phong phú, thấu hiểu và cảm thông, yêu mến và trân trọng cuộc sống thì Kim Lân mới có thể viết nên những trang văn có sức lay động hồn người đến vậy. Nhà văn đã thêm một lần khắc sâu trong tâm khảm mỗi người tình mẹ cao cả và thiêng liêng trong cái đói tối tăm đã cứu vớt tâm hồn người, nâng con người lên bằng những sợi dây tình cảm đan dày.
Xem thêm:
- Phân tích truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
- Phân tích hình ảnh nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân
- Phân tích hình tượng người vợ “nhặt” trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân
- Qua các nhân vật trong “Vợ nhặt”, hãy chứng minh: “;Những người đói họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống”
- Cảm nhận hình ảnh đáng thương của người vợ “nhặt” và sức mạnh tình người trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân