phan-tich-tinh-canh-le-loi-cua-nguoi-chinh-phu-10799-2

Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (trích “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn)

Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (trích “Chinh phụ ngâm khúc” – Đặng Trần Côn)

  • Mở bài:

Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán, do tác giả Đặng Trần Côn sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Đây là thời kì vô cùng rối ren của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra liên miên, hết Lê-Mạc đánh nhau đến Trịnh – Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch xuất hiện, trong đó bản dịch sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được coi là hoàn hảo hơn cả, thể hiện thành công lẫn trị nội dung và nghệ thuật của nguyên tác. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” (từ câu 193 đến câu 228) miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khộ ở người chinh phụ đang khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.

  • Thân bài:

Sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến trường đầy hiểm nguy, chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chồng. Một lần nữa nàng tự hỏi vì sao đôi lứa uyên ương lại phải chia lìa? Vì sao mình lại rơi vào tình cảnh lẻ loi? Bấy nhiêu câu hỏi đều không có câu trả lời. Tâm trạng băn khoăn, day dứt ấy được tác giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế. Có thể nói, sầu và nhớ là cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ này.

Trong mười sáu câu thơ đầu, tác giả tập trung miêu tả hành động và tâm trạng của người chinh phụ:

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!

Nàng lặng lẽ “Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước” trong nỗi cô đơn đang tràn ngập tâm hồn. Nhịp thơ chậm gợi cảm giác như thời gian ngưng đọng. Giữa không gian tịch mịch, tiếng bước chân như gieo vào lòng người âm thanh lẻ loi, cô độc. Nỗi nhớ nhung sầu muộn và khắc khoải mong chờ khiến bước chân người chinh phụ trở nên nặng trĩu. Nàng bồn chồn đứng ngồi không yên, hết buông rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên, sốt ruột mong một tiếng chim thước báo tin vui mà chẳng thấy.

Nàng khát khao có người đồng cảm và chia sẻ tâm tình. Không gian im ắng, chỉ có ngọn đèn đối diện với nàng. Lúc đầu, nàng tưởng như ngọn đèn biết tâm sự của mình, nhưng rồi lại nghĩ: Đèn có biết dường bằng chẳng biết, bởi nó là vật vô tri vô giác. Nhìn ngọn đèn chong suốt năm canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, nàng chợt liên tưởng đến tình cảnh của mình và trong lòng rưng rưng nỗi thương thân tủi phận: Hoa đèn kia với bóng người khá thương!

Hình ảnh người chinh phụ “thầm gieo từng bước” ngoài hiên vắng và suốt năm canh ngồi một mình bên ngọn đèn chong, không biết san sẻ nỗi niềm tâm sự cùng ai đã miêu tả được tâm trạng cô đơn tột độ của người chinh phụ.

Tác giả đặc tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ trong tám câu thơ. Đó là cảm giác lúc nào và ở đâu cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài phòng, trong phòng. Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô tận theo thời gian luôn deo đẳng, ám ảnh nàng.

Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi:

Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rũ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Tiếng gà gáy báo canh năm làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. Cây hòe phất phơ rũ bóng trong ánh sáng lờ mờ của ban mai gợi cảm giác buồn bã, hoang vắng. Giữa không gian ấy, người chinh phụ cảm thấy mình nhỏ bé, cô độc biết chừng nào!

Ở các khổ thơ tiếp theo, nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:

Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dày uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây khỏa nhưng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi đơn chiếc, Khi “hương gượng đốt” thì hồn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu. Lúc “gương gượng soi” thì nàng lại không cầm được nước mắt bởi vì nhớ gương này mình cùng chồng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy khúc đàn loan phượng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chồng đang chia lìa đôi ngả, đầy những dự cảm chẳng lành: Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn đang chất ngất trong lòng mình vậy.

Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm đến sự chia Ha đôi lứa trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, nàng chí còn biết gửi nhớ thương theo cơn gió:

Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

Sau những day dứt của một trạng thái bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt có một ý nghĩ rất nên thơ: nhờ gió xuân gửi lòng mình tới người chồng ở chiến trường xa, đang đối đầu với cái chết để mong kiếm chút tước hầu. Chắc chắn, chàng cũng sống trong tâm trạng nhớ nhung mái ấm gia đình với bóng dáng thân yêu của mẹ già, vợ trẻ, con thơ:

Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

Không gian xa cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh vũ trụ vô biên: Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Thăm thẳm nỗi nhớ người yêu, thăm thẳm con đường đến chỗ người yêu, thăm thẳm con đường lên trời. Câu thơ hàm súc về mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình thức. Cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều mới mẻ, hiếm thấy trong vắn chương nước ta thời trung đại:

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

Hai câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa, cay đắng. Đất trời thì bao la, bát ngát, không giới hạn, liệu có thấu nỗi sinh li đau đớn đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ này chăng? Nói như người xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức biết kêu ai? biết ngỏ cùng ai? Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn xoáy, gây nên nỗi đớn đau cho thể xác:

Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.

Giữa con người và cảnh vật dường như có sự tương đồng khiến cho nỗi sầu thương trở nên da diết, bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã chuyển thành tâm cảnh bởi được nhìn qua đôi mắt đẫm lệ buồn thương cho thân phận bất hạnh, cô đơn. Sự giá lạnh của tâm hồn làm tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. Cũng giọt sương ấy đọng trên cành cây, cũng tiếng trùng ấy rả rích trong đêm mưa gió, nhưng cảnh ấy tình này lại gợi nên bao sóng gió, bao nỗi đoạn trường trong lòng người chinh phụ. Tình cảnh ấy, tâm trạng ấy tự nó đã nối lên bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ không được sống hạnh phúc, đồng thời cũng phản ánh thái độ lên án chiến tranh của tác giả.

  • Kết bài:

Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tình được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật. Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình cảnh lẻ loi vì chồng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực của các vua chúa, tác giả đã đề cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện tinh thần phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.


Tham khảo:

Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

  • Mở bài:

Chinh phụ ngâm là một trong những tác phẩm nổi nhất của nền văn học Việt nam thế kỉ XVII do Đặng Trần Côn sáng tác. Tác phẩm được xem là kiệt tác văn học, có giá trị về nhiều mặt. Tác phẩm là tiếng nói oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa của tác giả, đồng thời thể hiện khát vọng hạnh phúc lứa đôi. Tác phẩm mang đậm bút pháp nghệ thuật cổ điển với tính tượng trưng ước lệ đặc sắc, bút pháp tả cảnh ngụ tình đạt đến độ hoàn mĩ. Đặc biệt, với bản dịch Chinh phụ ngâm khúc đã đưa ngôn ngữ dân tộc lên tầm cao mới, phong phú, uyển chuyển. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ viết về tình cảnh và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn, buồn khổ trong thời gian dài người chồng đi đánh trận không có tin tức và khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ.

  • Thân bài:

Tám câu thơ đầu khắc họa nỗi cô đơn lẻ bóng của người chinh phụ:

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, 
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen. 
Ngoài rèm thước chẳng mách tin, 
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng? 

Nàng cứ đi đi lại lại quanh quẩn ngoài hiên “dạo hiên vắng”, “thầm gieo từng bước”, hết buông rèm, rồi lại cuốn rèm nhiều lần, thao thức cùng ngọn đèn khuya. Hành động cứ lặp đi lặp lại trong vô thức, không mục đích và vô nghĩa. Những động tác, hành động của chinh phụ chứng tỏ nàng không tự chủ được bản thân vì mối sầu nhớ triền miên, da diết không biết san sẻ cùng ai. Những động tác lặp đi lặp lại không mục đích, vô nghĩa thể hiện tâm trạng rối bời, nhung nhớ đến ngẩn ngơ, cô đơn lẻ loi. Nàng khổ đau đến quẫn bách cả tinh thần.

Giữa cái không gian tĩnh mịch của đêm, tiếng bước chân chậm rãi như gieo vào lòng người cái âm thanh lẻ loi cô độc. Pu-skin trên con đường mùa đông vắng vẻ, cô đơn hơn bởi tiếng lục lạc đơn điệu thì người chinh phụ cô đơn hơn khi nghe tiếng bước chân của mình.  Từng khắc, từng giờ, nàng mong ngóng tin xa nhưng càng chờ đợi càng thấy bặt tăm:

Ngoài rèm thước chẳng mách tin, 
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng? 

Chim thước là loài chim báo tin tốt lành. Nhưng giờ đây “Thước chẳng mách tin”. Nàng thầm trách chim thước vì không nhận được tin của chồng. Càng mong ngóng càng thấy tuyệt vọng. Người chinh phụ tìm đến bày tỏ tâm sự với đèn nhưng rồi cũng vô ích. Cuối cùng thấy mình và đèn có cùng một cảnh ngộ đáng thương. Nỗi cô đơn thể hiện qua sự đối bóng giữa người chinh phụ và ngọn đèn khuya, vẫn chỉ là “một mình mình biết, một mình mình hay”.

Nỗi đau đớn âm thầm nhưng quá lớn ấy khiến nàng khao khát có sự đồng cảm. Nhưng chỉ có ngọn đèn đối diện với nàng mà thôi. Liệu ngọn đèn có thấu hiểu được không hay sức nặng của nỗi cô đơn, của sự nhung nhớ lại dồn cả lên nàng. Ngọn đèn chỉ là vật vô tri vô giác, “có biết dường bằng chẳng biết” :

Đèn có biết dường bằng chẳng biết, 
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. 
Buồn rầu nói chẳng nên lời, 
Hoa đèn kia với bóng người khá thương. 

Điệp ngữ bắc cầu “Đèn biết chăng” – “đèn có biết” thể hiện tâm trạng buồn triền miên, kéo dài lê thê dường như không bao giờ dứt, ngừng. Kết hợp với câu hỏi tu từ: “Đèn biết chăng – đèn chẳng biết” làm lời than thở, nỗi khắc khoải, chờ đợi và hi vọng trong nàng day dứt không yên. Tâm trạng của nhân vật trữ tình đã chuyển giọng tự nhiên từ lời kể bên ngoài thành lời tự độc thoại nội tâm da diết, tự dằn vặt, rất thương, rất ngậm ngùi.

Hình ảnh “ngọn đèn”, “hoa đèn” cùng với cái bóng trên tường của mình gợi cho người đọc gợi nhớ đến hình ảnh ngọn đèn không tắt trong nỗi nhớ của người thiếu nữ trong bài ca dao quen thuộc “đèn thương nhớ ai, mà đèn không tắt?” và nhớ đến truyện Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Trong im lặng dằng dặc, dưới ánh đèn thăm thẳm, người chinh phụ trẻ chỉ còn thầm lặng chuyện trò với ngọn đèn, với cái bóng của chính mình.

Tám câu tiếp theo khắc họa nỗi sầu muộn triền miên của người chinh phụ trong đêm khuya khoắt:

Cảnh vật không san sẻ mà cộng hưởng cùng nỗi sầu của người chinh phụ khiến nàng đau càng đau, sầu càng sầu. Nỗi chờ đợi ngày càng vô vọng. Dường như người thiếu phụ thức trắng cả năm canh và bị nỗi nhớ nhung giày vò :

Gà eo óc gáy sương năm trống, 
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên. 
Khắc giờ đằng đẵng như niên, 
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa. 

Để diễn tả tâm trạng sầu muộn của người chinh phụ, tác giả đã sử dụng những hệ thống những  âm thanh, hình ảnh vo cùng đặc sắc và ấn tượng. Những từ ngữ thuần Việt với những chữ như “eo óc”, “phất phơ”, dùng để tả cảnh nhưng đã chuyển tải được nỗi cô độc, buồn sầu của người thiếu phụ. Tiếng gà gáy suốt năm canh, biểu hiện sự vắng vẻ tĩnh mịch của không gian. Nó vừa gợi hình ảnh, vừa gợi tâm trạng.

Dáng hoè phất qua bên nọ bên kia gợi nên hình ảnh người chinh phụ ủ ủ, vật vã trong nhớ nhung giữa đêm khuya lẻ loi. Đếm từng khắc thời gian trôi đi chậm chạp, nhìn xung quanh thì bốn phía chỉ là cây hoè rủ bóng, nàng chìm ngập trong nỗi cô đơn. Người chinh phụ cô đơn đã thao thức suốt cả đêm trong một không gian hoang vắng, tĩnh mịch. Khi chờ đợi bao giờ thời gian cũng rất dài. Thuý Kiều trong tâm trạng đợi chờ Kim Trọng :

Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê !

Giống như tâm trạng người chinh phụ chờ chồng :

Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Thời gian cứ dài dằng dặc và không gian thì mênh mông vô tận, người chinh phụ nhỏ bé và đơn độc trước không gian và thời gian. Biết nỗi đợi chờ là vô vọng, nàng đã cố gắng để đưa mình ra khỏi nỗi cô đơn. Gắng gượng điểm phấn tô son, dạo đàn nhưng càng cố gắng vùng vẫy càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng:

Hương gượng đốt hồn đà mê mải, 
Gương gượng soi lệ lại châu chan. 
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn, 
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng. 

Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, cũng nhìn thấy cảnh lẻ loi đơn chiếc. Soi gương thì nước mắt đầm đìa bởi nàng phải đối diện với gương mặt thanh xuân đang mỏi mòn dần và thì xuân sắc đang phũ phàng trôi qua. Khúc đàn loan phượng thì gợi nhớ cảnh chồng vợ chia lìa.

Nỗi đau đớn, tủi hờn của người chinh phụ thể hiện nỗi khao khát hạnh phúc lứa đôi chân chính. Với nỗi niềm cảm thông sâu sắc, tác giả và dịch giả đã thể hiện rất tinh tế và thành công những trạng thái tâm lí phức tạp của người thiếu phụ, qua đó thể hiện thái độ của mình trước những cuộc chiến tranh, binh biến liên miên dưới chế độ phong kiến thế kỉ XVIII. Tuy tác phẩm không nói rõ tính chất cuộc chiến tranh mà người chinh phu tham gia, song dựa trên những điều kiện lịch sử khi tác phẩm ra đời, có thể nhận thấy, đó không phải là cuộc chiến tranh vệ quốc, mà là cuộc chiến giành giật quyền lực của các tập đoàn phong kiến, những cuộc chiến phi nghĩa.

Đặc sắc nghệ thuật trong đoạn trích.

Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, độc thoại nội tâm, câu thơ gợi tả tâm trạng đau đáu, tha thiết không nguôi như nhuốm vào giọt mưa, giọt sương, đều đều, miên man trong tiếng trùng ra rả. Qua đó bộc lộ nỗi nhớ nhung đau đớn, xót xa của người chinh phụ với hình ảnh chinh phu tràn ngập trong tâm tưởng. Đó là khát khao sự đồng cảm của người chinh phu nơi biên ải nhưng vô vọng, sầu nhớ da diết, triền miên. Qua đoạn trích, tác giả thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với khao khát hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ. Đoạn trích cũng gián tiếp lên án chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đã gieo rắc biết bao đau khổ lên số phận con người.

Dịch Chinh phụ ngâm, dịch giả đã chọn thể thơ song thất lục bát, một thể thơ dân tộc có khả năng lớn trong việc thể hiện tâm trạng của nhân vật, nhất là tâm trạng buồn đau, sầu muộn. Dịch giả đã dịch rất thanh thoát nội dung của nguyên tác, thể hiện chân thực nỗi buồn của người thiếu phụ phương Đông, mãnh liệt, da diết nhưng kín đáo. Chinh phụ ngâm đã đánh dấu một bước tiến vượt bậc của ngôn ngữ văn học dân tộc.

Với tác phẩm này, tiếng Việt đã chứng minh khả năng diễn tả tư tưởng tình cảm một cách sâu sắc, tinh tế. Với tấm lòng thương yêu và sự cảm thông sâu sắc với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, tác giả và dịch giả cất lên tiếng kêu nhân đạo, tiếng kêu phản đối chiến tranh phi nghĩa. Thái độ phản chiến tuy không bộc lộ trực tiếp song lại rất mạnh mẽ. Chiến tranh đã cướp đi của con người hạnh phúc và tuổi trẻ, thậm chí cả mạng sống. Vì một cuộc chiến, có biết bao người vợ phải xa chồng, phải giam mình trong nỗi cô đơn, buồn tủi như người chinh phụ kia. Có người đón chồng trở về khi tóc đã pha sương, nhưng đó còn là may mắn. Có người đau xót đón tin chồng không trở về sau những ngày mỏi mòn trông đợi.

“Vì ai gây dựng cho nên nỗi này” là lời oán thán nặng nề nhất trong Chinh phụ ngâm, lời ai oán không mạnh mẽ nhưng uất ức và oán trách. Đó là một trong những giá trị của Chinh phụ ngâm. Nhưng cao hơn cả, tác phẩm là sự tiếp nối xuất sắc cảm hứng nhân đạo của nền văn học dân tộc, một lần nữa, những khao khát hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến lại được ủng hộ. Đề tài về thân phận người phụ nữ lại được góp thêm một tiếng nói mới đầy sức mạnh nhân văn.

  • Kết bài:

Tác giả bản dịch đã sử dụng ưu thế của thể thơ song thất lục bát, đã vươn tới một sáng tạo tài tình bằng ngôn ngữ trong sáng hiện đại, kết cấu thanh vận khéo léo, láy âm điệp chữ tinh tế, gieo vào lòng độc giả âm hưởng xao xuyến vừa quen thuộc vừa đa dạng, và hầu như lúc nào cũng gây được hiệu quả thẩm mĩ. Một lần nữa, đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ không ngừng thúc dội mãnh liệt vào trái tim con người bằng những vần thơ tinh xảo, giàu giá trị nhân văn và nhân đạo sâu sắc.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang