phan-tich-truyen-lang-cua-kim-lan

Phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân

Phân tích truyện ngắn “Làng” của Kim Lân

  • Mở bài:

Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Vốn am hiểu và gắn bó sâu sắc cuộc sống nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về đề tài sinh hoạt ở làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. “Làng” là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn trong giai đoạn trước năm 1954. Tác phẩm khắc hoạn đậm nét tình yêu làng, yêu nước thiết tha của nhân vật ông Hai, một lão nông hiền lành, chất phác. Qua nhân vật ông Hai, người đọc cũng nhạn rõ những chuyển mới của người nông dân Việt Nam trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp: yêu quê hương, đất nước, căm thù kẻ thù xâm lược, đứng về phía cách mạng và quyết tâm bảo vệ cuộc sống.

  • Thân bài:

Điều đầu tiên mà ta cảm nhận được ở nhân vật ông Hai là tình yêu làng xóm, yêu quê hương thiết tha. Có thể nói cái làng Chợ Dàu gắn bó như máu thịt, như một phần cuộc sống của ông. Tác giả đã để cho ông Hai bộc lộ tình yêu đó một cách nồng nhiệt, rất riêng mà cũng rất giống với những người dân lao động Việt Nam vốn sống với những hình ảnh làng xóm quê hương từ tấm bé. Song tình yêu làng của ông không bảo thủ mà biến chuyển theo dòng chảy thời đại. Nó luôn đổi mới hợp lý, sâu sắc, rất quyết liệt và cũng rất đúng với rung động thật sự từ tấm lòng ông.

Trước cách mạng tháng Tám, lúc còn ở làng, ông Hai thường khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông: “ ông có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm”. Lời nói ấy thể hiện một sự chân thành, một tỉnh cảm sâu kín tận đáy lòng ông. Yêu làng, ông yêu tất cả những gì của làng ông, yêu cả những cái mà mình đã khổ sở vì nó. Làng và ông là một, là máu thịt và tinh thần, là hòa hợp nhát thể, khó mà tách ra được.

Kim Lân đã xây dựng nhân vật ông Hai bắt đầu là như thể vừa để phản ánh thực tế về những người nông dân dưới xã hội mù mịt đen tối, vừa khẳng định ý nghĩa quan trọng của ánh sáng cách mạng tháng Tám. Cách mạng tháng Tám thành công đem lại sự đổi mới quyết định đối với mỗi tâm hồn, với tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam, trong đó có ông Hai. Giờ đây, ông không còn khoe cái lăng cụ Thượng, cái sinh phần kia nữa. Ông chỉ khoe về sự giàu có, trù phú của làng ông với cái chòi phát thanh cao nhất với đường làng lát đá xanh mà trời mưa bùn không dính đến gót chân. Đặc biệt, ông yêu nhất là cái tinh thần của người làng ông: hăng hái và yêu cách mạng.

Với cách miêu tả cụ thể, chi tiết, ngôn ngữ chất phác, Kim Lân đã mở ra trong lòng ta một tình yêu làng mãnh liệt đang cuộn trào trong ông Hai. Cảnh vật xóm làng đã in đậm trong trái tim ông, như đang trỗi dậy, hiện về rõ mồn một trước mắt. Tình cảm ấy thật đơn sơ mà đáng quý biết bao. Qua lời kể của ông Hai, làng Dầu hiện lên thật tươi đẹp, ấm no, bình yên, gần gũi. Nó càng đẹp hơn hết dưới con mắt của ông Hai. Có lẽ vì thế nên mỗi khi kể chuyện về làng, ông lại say sưa, háo hức lạ thường, thậm chí chẳng để ý xem người ta có nghe mình nữa không.

Mỗi khi nghĩ về làng, “hai con mắt ông sáng hẳn, lên cái mặt biến chuyển hoạt động”. Chỉ bằng một câu ngắn gọn, nhà văn đã gợi cho chúng ta tình cảm thiêng liêng mà ông Hai dành cho làng thật sâu sắc, thật thắm thiết. Tình yêu ấy đã khắc sâu trong tim ông và trở thành một khối tình nóng bỏng luôn ủ ấm tâm hồn ông. Dù ở nơi tản cư, ông luôn mong muốn được trở về sống với làng xóm, quê hương. Vì thế khi nói chuyện về làng, ông vui vẻ hoạt bát hẳn lên. Dường như một nguồn sinh lực nào đó đang lan tỏa trong người khiến ông quên hết xung quanh để kể về cáị làng ấy. Phải chăng, nguồn năng lực đó là tình yêu làng đắm say tha thiết?

Tình yêu làng đang trào dâng như sóng và trở thành một niềm cảm hứng mãnh liệt trong ông. Bằng cách để nhân vật tự kể về mình, nhà văn đã giúp ta hiểu được phần nào tâm trạng của ông Hai. Niềm vui sướng của ông khi kể chuyện làng lan cả sang trang sách, len lỏi vào lòng người đọc. Không những vậy, ông còn tự hào về làng mình có những đường hầm, hào liến tiếp, có những ụ, những giao thông , những buổi tập quân sự của các cụ phụ lão cứu quốc. Điều đó thể hiện một tình cảm sâu kín thấm vào da thịt ông rất giản dị mà cao quý.

Tình cảm đó càng được nhân lên gấp bội khi ông nghe tin làng chợ Dầu đi Việt gian. Trước cái tin dữ ấy “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Tưởng như đến không thở được…”. Chỉ bằng một chi tiết nhỏ, Kim Lân đã thể hiện thành công sự đau khổ đang giày vò, giằng xé tâm can ông Hai.

Nhà văn rất tài tình khi xây dựng, dâng tình tiết truyện lên đến kịch tính, đưa câu chuyện lên đỉnh cao xung đột tâm lí để bộc lộ đáy sâu tấm lòng của ông Hai. Biết tin sét đánh này, ông nghẹn ngào, choáng váng như sét đánh ngang tai, nói không ra lời như một cái gì đó nuốt không nổi. Suy cho cùng, nỗi đau đóm ấy cũng xuất phát từ tình yêu làng của ông mà ra. Bởi vì yêu làng quá, tin làng quá nên ông mới phải xấu hổ, tủi nhục khi nghe cái tin ấy. Tình yêu làng của ông cao đẹp, to lớn biết dường nào?

Trong con người ông Hai, tình cảm dành cho làng gắn liền với tình yêu nước. Tình yêu quê hương là cội nguồn cùa tình yêu nước. Đúng như I-li-a Ê-ren-bua, một nhà văn Liên Xô cũ đã viết: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất… Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên tình yêu tổ quốc”. Với ông Hai, chân lý ấy càng đúng hơn bao giờ hết. Từ chỗ yêu những con đường làng, yêu những mái nhà ngói,… tình cảm của ông Hai tiến dân lên lòng yêu nước. Lòng yêu nước sâu nặng, thầm kín ấy lại bừng sáng rực rỡ ,lung linh trong tâm hồn ông. Tình yêu làng được nâng cao, được vút lên đinh cao của vẻ đẹp trong nhân vật ông Hai mà Kim Lân tập trung khấc họa, tô đậm rõ nét.

Vì yêu nước nên ông Hai căm thù bọn phản bội đất nước. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây ông đã rít lên : “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt Gian bán nước để nhục nhã thế này!” . Tiếng rít ấy thể hiện sự căm giận đang bốc lên ngùn ngụt, thể hiện sự dồn nén, kìm hãm đã ghê gớm lắm rồi trong lòng ông. Lời nói ấy ẩn chứa bao nhiêu lời trách oán, khinh bỉ, khổ đau. Cũng vi yêu nước mà chiều nào cũng cũng tìm đến phòng thông tin nghe tin tức về cuộc kháng chiến, ông hả lòng, hả dạ, sung sướng , tự hào về những chiến tích anh hùng của mọi người dân trong cả nước. Điều đó thể hiện tấm lòng chân thật của ông Hai dành cho đất nước.

Những diễn biến trong cảm xúc, tâm trạng những nghĩ suy sâu sắc, những cuộc đấu tranh xung đột gay gắt trong nội tâm ông Hai đã tô đậm thêm tình yêu quê hương, đất nước của ông. Chính ông đã khẳng định: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Câu nói ấy chân thành như một lời bộc bạch, tình yêu cùa ông Hai bây giờ thực sự có ý thức, ông cảm thấy tủi hổ vì làng theo Tây và ông cảm thương những đứa con ông có một quê hương như thế. Ông không dám đi đến đâu, lúc nào cũng nơm nớp lo lâu. Cuộc đấu tranh nội tâm diễn ra thật gay gắt, quyết liệt. Có những lúc ông định về làng , song ông nghĩ: “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”. Như vậy là tấm lòng ông đã dành hẳn cho đất nước, tình yêu nước đã kết tụ, lắng đọng lại trong ông thành một thứ ánh sáng diệu kì, rực rỡ.

Lòng yêu nước sâu nặng của ông Hai đã thúc giục ông phải bảo vệ đất nước, phải đánh đuổi quân giặc tàn bạo, dã man. Nhiều lúc, ông bồi hồi nhớ lâị nhưng ngày kháng chiến ờ làng. Hồi ấy ờ làng chợ Dầu thật khí thế, đông vui, sôi nổi: “Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một, hai”. Ta không chỉ thấy ở ông Hai một quyết tâm theo Bác Hồ , theo kháng chiến đến cùng mà ta còn thấy cả những người dân lảng chợ Dầu nói riêng và người dân Việt Nam nói chung đều có cùng quyết tâm như vậy.

Dù già, dù trẻ ai cũng muốn góp sức mình vào cuộc kháng chiến trường kì để làm nên thắng lợi. Kim Lân đã tái hiện một thời kỉ toàn dân tộc ta sôi sục đứng lên đánh giặc trong những ngày đầu kháng chiến mà ông Hai là một nhân vật điển hình. Cũng như bạo người khác ông sẵn sàng hi sinh tất cả cho kháng chiến, cho cụ Hồ.

Chi tiết cuối truyện khắc sâu trong lòng bạn đọc bời vì ông hai rất vui mừng, hả hê khi khoe khoang làng ông không đi Việt gian và : “Tây nó đốt nhà tôi tôi bác ạ! Đốt sạch!”. Người nông dân xưa luôn bị đè nặng bởi miếng com manh áo, bởi nhà cửa vườn tược… khi phải bỏ nhà ra đi, họ xót xa lắm rọi. Song với ông Hai, ngay cả khi cháy nhà, ông vẫn sung sướng lắm vì ông hiểu rằng như vậy là ông đã cống hiến cho quê hương đất nước, như vậy là làng ông vẫn bất khuất anh hùng. Làng chợ Dầu còn biết bao người vẫn một lòng đánh giặc. Nếu như lúc trước tinh thần ông Hai sụp đổ ghê gớm thì bây giờ ánh sáng của niềm tin, niềm hy vọng lại chiếu rọi sáng ngời tâm hồn ông. Yêu làng và yêu nước quyết tâm kháng chiến đến cùng, kính yêu lãnh tụ với niềm tin sắt đá. Đó là tấm lòng của ông Hai, là tâm hồn hàng triệu người nông dân Việt Nam thời máu lửa.

Kim Lân đã rất thành công khi lựa chọn giọng kể nhẹ nhàng mà lắng sâu, có chiều sâu tâm lí. Cách sáng tạo tình huống truyện có tính căng thẳng, thử thách hết sức đọc đáo. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tự nhiên mà sâu sắc, tinh tế. Ngôn ngữ đặc sắc, sinh động, mang đậm chất khẩu ngữ, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân.

Liên hệ:

* Liên hệ với niềm tự hào về quê hương xứ sở trong bài thơ Nói với con của Y Phương:

Phía sau lời gửi gắm và niềm mong mỏi thiết tha của người cha đối với người con, ta nhận thấy trong bài thơ Nói với con là niềm tự hòa lớn lao về quê hương, xứ sở của con người. Đó là một quê hương với thiên nhiên núi rừng cũng hào phóng ban tặng cho ta biết bao hoa thơm trái ngọt, hương hoa nồng nàn thanh khiết, sắc hoa tươi thắm tô điểm làm đẹp cho cảnh sắc của quê hương đất nước. Trên khắp mọi nẻo đường của quê hương đất nước, dù đi đâu về đâu ta cũng bắt gặp những con người, những tấm lòng thơm thảo thủy chung, nhân ái nghĩa tình, luôn biết sống yêu thương đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau:

Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng

Quê hương là nơi tình yêu lứa đôi được hình thành sinh sôi nảy nở, là nơi ta dựng xây tổ ấm gia đình hạnh phúc. Biết bao thế hệ con người đã sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này:

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Không chỉ gợi cho con về cội nguồn sinh dưỡng, người cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của “người đồng mình” để từ đó gởi gắm biết bao ước mơ kì vọng của cha dành cho con.

Người đồng mình luôn có ý chí vươn cao, vươn xa:

“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”

Người đồng mình luôn nỗ lực vượt qua khó khăn, trở ngại dựng xây quê hương:

“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”

Người đồng mình thô sơ da thịt, chân chất quê mùa, lối sống mộc mạc bình dị nhưng chẳng có ai tầm thường nhỏ bé. bởi họ mang trong mình biết bao phẩm chất tốt đẹp. Trước gian khổ khó khăn không bao giờ đầu hàng khuất phục. Con người có ý chí nghị lực phi thường, sống giàu tình nặng nghĩa, yêu quê hương nồng nàn tha thiết. Bằng sức lao động, họ dựng xây, bồi đắp cho quê hương ngày càng giàu đẹp, xây dựng và giữ gìn phong tục cho muôn đời sau:

“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”

Và từ cuộc sống lao động cần lao nhưng thắm đượm tình nghĩa đã làm nên bản sắc văn hóa, những phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương đất nước để mỗi người dân Tày hôm nay và mai sau luôn cảm thấy yêu quý, tự hào về quê hương đất nước mình:

Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con

Lời nhắn nhủ chân thành tha thiết. Gởi gắm trong đó là bao ước vọng lớn lao của người cha mong muốn con sau này lớn khôn trên bước đường đời đầy chông gai thử thách hãy sống kiên cường mạnh mẽ, đừng bao giờ khuất phục trước gian khổ khó khăn.

* Liên hệ hình ảnh lão nông hiền lành, chấc phác trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao:

Hình ảnh ông ảnh, một lão nông hiền lành, chấc phác, sống với đồng với ruộng, một lòng với đất với người khiến người động nhớ đến hình ảnh nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao.

Lão Hạc là người cha hết mực yêu thương con. Có thể nói, lão đã sống vì con và chết cũng vì con. Cái gì lão cũng dành dụm cho con. Lão hi sinh tất cả chỉ để mong con trai lão có thể có cuộc sống đàng hoàng. Cũng như lão Hạc, ông Hai cũng yêu thương con tha thiết. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc và đến khi mụ chủ nhà bóng gió rằng không cho người làng chợ Dầu ở nữa, lão cay đắng nhìn những đứa con, lòng đau quặn thắt khi nghĩ đến tương lai của chúng.

Lão Hạc là một người có lòng nhân hậu. Không chỉ thế, lão còn là người giàu lòng tự trọng. Trong làng, chưa bao giờ người ta thấy lão xích mích với ai. Dẫu đói khổ đến cùng cực, lão quyết không nhận bất kỳ sự giúp đỡ nào của ông giáo. Trước khi tự tử đã gửi lại ông giáo chút tiền để lo ma chay. Thật là, đời lão lão lo, lão không muốn phiền hà đến bất kì ai.

Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí, tự sự tác giả Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng nên một nhân vật Lão Hạc điển hình cho người nông dân. Đó chính là người có tấm lòng tự trọng, có lối sống trong sạch tinh khiết, tấm lòng yêu thương con tha thiết dù cuộc sống khốn khổ, bị đày đọa khổ ải. Từ hình tượng lão Hạc bế tắc trước hoàn cảnh trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao đến hình tượng ông Hai yêu làng, yêu nước, một lòng đi về với cách mạng trong truyện ngắn Làng là một quá trình chuyển tiếp hợp lí, có cở sở của người nông dân Việt nam từ trong đêm tối nô lệ tìm đến ánh sáng của cách mạng, tìm thấy đường con đường giải phóng cuộc sống nô lệ của mình

  • Kết bài:

Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất,hòa quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.


Bài tham khảo:

  • Mở bài:

Truyện ngắn Làng của Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm thể hiện lòng yêu nước tha thiết, nồng nàn của người nông dân, đồng thời cũng là những khám phá, phát hiện mới mẻ của tác giả về lòng yêu nước.

  • Thân bài:

Tác phẩm kể về ông Hai, người có lòng yêu làng chợ Dầu tha thiết, nhưng vì chiến tranh phải đưa cả gia đình đi tản cư. Dù phải xa làng nhưng ông lúc nào cũng đau đáu nhớ về quê hương, luôn dõi theo tin tức cách mạng và những tin xung quanh làng mình. Ông Hai là người có lòng yêu quê hương tha thiết.

Trong những ngày tản cư, ông Hai cũng như bao người nông dân khác, ông tự hào về cái làng của mình lắm và ông luôn khoe với mọi người về làng Chợ Dầu giàu tinh thần kháng chiến. Ông nhớ về những ngày làm việc cùng anh em đồng chí đào đường, đắp ụ xẻ hào, khuân đá, những ngày tháng gian lao, nhưng mỗi lần nhớ về lòng ông lại hào hứng hẳn lên, ông hứng khởi và thấy mình trẻ hẳn ra. Nỗi nhớ ấy đôi khi trào dâng, buột thành lời nói đầy chân thành: Nhớ làng, nhớ cái làng quá. Không chỉ dừng lại ở suy nghĩ, lòng nhớ làng quê của ông còn gắn với tình yêu nước, ngày nào ông cũng ra phòng thông tin để nghe người khác đọc tin tức, ông nghe không sót một tin nào: một em bé bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì, đội du kích bắt sống một tên quan,… Niềm vui của ông thật mộc mạc, giản dị, nhưng đó cũng chính là cách ông thể hiện tình yêu nước chân thành của mình.

Nhưng giữa những ngày đó, ông nghe được tin dữ, làng ông xiết bao nhớ thương, tự hào đã đi theo Tây. Cái tin đột ngột ấy khiến ông bàng hoàng, sững sờ. Cổ họng ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, ông lặng cả người đến nỗi không thể thở được. Câu hỏi liệu có thật không hở bác? Hay là… càng nhấn mạnh hơn nữa nỗi sửng sốt của ông, trong lòng ông trào lên nỗi băn khoăn, nghi ngờ. Nhưng sau khi nghe những lời quá rành rọt của người phụ nữ kia, ông chẳng biết làm gì ngoài nói một câu: Hà nắng gớm về nào… mà thực chất là nói lảng để ra về. Từ lúc ấy, đầu óc ông lúc nào cũng bị cái tin ấy xâm chiếm.

Nếu như mọi ngày, về đến nhà ông sẽ đến bên lũ trẻ, kể cho chúng nghe nhiều điều thì hôm nay ông nằm vật ra giường, buồn bã, tủi thân nên nước mắt cứ thế trào ra. Bấy lâu nay ông tự hào về quê hương, khoe làng với khắp mọi người thì nay nơi ấy chỉ còn là nỗi xấu hổ, uất ức. Căm phẫn đến cùng cực ông rít lên tiếng chửi: Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước, để nhục nhã thế này. Những ngày sau đó, xấu hổ, tủi nhục ông chẳng dám đi đâu, chỉ cần nghe tiếng lào xào ông cũng tưởng là người ta đang chửi mình, ông chỉ dám quanh quẩn ở nhà. Hễ thấy đám đông nhắc đến việt gian, cam nhông ông lại lủi vào góc nhà, im thin thít, tình cảnh của ông thật đáng thương.

Trong tình cảnh khốn cùng ấy, ông còn bị đẩy đến một tình huống đầy bi kịch khác, chính là khi bị bà chủ nhà đuổi khéo, câu nói: Tưởng làng chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà, như cào xé, dày vò tâm can ông. Nhưng cũng chính trong lúc này đã buộc ông phải lựa chọn giữa tình yêu làng và tình yêu nước. Đã có lúc ông nghĩ hay là bỏ về làng, nhưng ông lại phản đối ngay vì về làng tức là theo giặc. Bởi vậy, ông đã đưa ra lựa chọn dứt khoát: Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Như vậy tình yêu làng có tha thiết, mãnh liệt nhưng cũng không thể mạnh hơn tình yêu nước, tình yêu nước bao trùm, chi phối tình yêu làng.

Trong tác phẩm, đoạn ông Hai trò chuyện với đứa con út là đoạn văn đầy xúc động, thể hiện tình yêu nước sâu nặng của ông. Trong tâm trạng bế tắc, ông tìm đến cu Húc để bày tỏ nỗi lòng của mình, trò chuyện với đứa con ngây thơ mà thực chất là ông đang trò chuyện với chính mình. Những lời ông tâm sự thể hiện tình yêu sâu nặng với làng chợ Dầu, dù căm thù lũ Việt gian nhưng sâu thẳm ông vẫn nhớ về nó, bởi vậy ông mới hỏi cu Húc quê con ở đâu, cũng là muốn khắc sâu vào tâm trí đứa trẻ tình yêu làng để nó không quên nguồn cội. Đồng thời trong cuộc trò chuyện đó cũng thể hiện tấm lòng thủy chung với cách mạng qua câu khẳng định: Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm và nước mắt ông cứ thế ròng ròng chảy khi nghĩ về làng. Nỗi đau ấy là nỗi đau của một người coi danh dự của làng cũng như danh dự của chính mình. Qua đó ta thấy được tình cảm của ông Hai với làng, với nước là một tình cảm hết sức sâu sắc, kiên định, bền vững và thiêng liêng.

Niềm vui lớn nhất trong cả cuộc đời ông có lẽ là khi nghe tin cải chính, “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy”. Vừa về đến nhà ông đã gọi lũ trẻ để chia quà. Không chỉ vậy, ông còn cứ mua lên và khoe với mọi người cái tin Tây đốt nhẵn làng mình. Tâm lý khoe khoang ấy hoàn toàn hợp lí, bởi tình yêu nước cao cả, lớn lao khiến ông chấp nhận hi sinh tài sản của mình. Đồng thời nó cũng là minh chứng, chứng minh làng ông luôn một lòng, một dạ đi theo kháng chiến. Ở ông tình yêu làng hòa quyện, thống nhất với tình yêu nước. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào ông cũng đặt tình yêu nước trên tình yêu làng. Vì thế từ hình ảnh ông Hai làng chợ Dầu ông đã trở thành hình ảnh tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam yêu làng, yêu nước thiết tha trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.

Tác phẩm xây dựng được tình huống truyện căng thẳng, nhiều thử thách, giúp nhân vật bộc lộ rõ tình yêu làng của mình. Ngôn ngữ kể chuyện giàu hình tượng, giản dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Vận dụng linh hoạt các kiểu câu, câu văn giàu cảm xúc, tạo nên những đoạn miêu tả sống động về cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt trong ông Hai. Ngôn ngữ nhân vật đặc sắc, sinh động, mang đậm chất khẩu ngữ, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân. Tất cả góp phần thể hiện chân thực, sinh động tình cảm yêu làng quê thống nhất với lòng yêu đất nước ở nhân vật ông Hai.

  • Kết bài:

Qua tác phẩm “Làng”, Kim Lân đã làm nổi bật tình yêu làng, yêu nước thiết tha sâu nặng của nhân vật. Tình yêu làng gắn với tình yêu nước và bị tình yêu nước chi phối, đây cũng là điểm mới mẻ về tình yêu nước của người nông dân sau cách mạng.


Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân

  • Mở bài:

Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và có sáng tác đăng báo trước cách mạng tháng 8/1945. Vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn “Làng” được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông Hai, nhân vật chính của truyện rất yêu mến và gắn bó với làng quê của mình. Đặc điểm trên đã thể hiện rõ qua các trạng thái tình cảm khác nhau của ông với làng.

  • Thân bài:

Ông Hai, thật vậy, đã yêu cái làng chợ Dầu của mình bằng một tình yêu đặc biệt. Đấy là nơi tổ tiên, cha mẹ ông đã từng sinh trưởng và cũng là nơi chôn rau cắt rốn của ông. Do vậy, ông yêu làng này bằng một tình yêu vốn có từ lâu, sâu sắc và bền vững như tình yêu của một nông dân gắn bó với quê hương, nói cụ thể hơn là gắn bó với cảnh vật và con người của mảnh đất quê hương ấy. Bởi thế, mỗi lần nói đến làng chợ Dầu ấy, ông đều nói với giọng say mê, náo nức lạ thường. “Hai con mắt sáng hẳn lên. Cái mặt biến chuyển hoạt động”... Ông yêu tất cả những cảnh vật ở làng ông, nên mạnh dạn tự hào: “Nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh”, đường trong làng “toàn lát đá xanh, trời mưa đi, bùn không dính đến gót chân”, “phơi thóc rơm thì tốt thượng hạng”. Đôi khi ông cường điệu, ông tự hào mãnh liệt đến cả cái sinh phần của cụ Thượng “vườn hoa cây cảnh nom như động ấy”.

Mãi đến sau cách mạng thánh Tám, ông mới nhận ra chính cái dinh cơ của quan Tổng đốc ấy đã đem lại bao nỗi khổ ải cho dân làng. Có người bệnh, có người chết, bao nhiêu người làm việc không công. Riêng phần ông đã bị một đống gạch đổ vào bại một bên hông. Cả cái chân ông sau này khập khiểng, đi đứng không ngay ngắn được cũng là do cái lăng tai ác ấy. Dưới mắt ông, cái gì của làng chợ Dầu cũng lớn, cũng đẹp hơn hẳn những thứ của thiên hạ. Từ cái phòng thông tin triển lãm “sáng sủa và rộng rãi nhất vùng”, đến cái chòi phát thanh trong làng, cả đến cây lúa ngoài đồng… Cái gì của làng cũng làm ông say mê, hãnh diện, tự hào.

Lúc cuộc kháng chiến của cả dân tộc bùng lên, lòng yêu mến làng quê của ông Hai đã có những chuyển biến rõ rệt. Nếu trước kia, ông hãnh diện vì làng chợ Dầu giàu có, tươi đẹp, cái sinh phần của cụ Thượng tốt tươi, mới lạ, thì sau cách mạng tháng Tám, nhờ giác ngộ chính trị, ông lại tự hào về không khí cách mạng sôi nổi ở làng ông. Từ những buổi tập quân sự, những hố, những ụ, những giao thông hào chiến đấu, ông đã bộc lộ niềm sung sướng của mình truớc những sự thay đổi đó. Sự xuất hiện của những phòng thông tin, chòi phát thanh, đúng là cuộc đời, số phận ông thực sự gắn liền với những thăng trầm của làng Dầu yêu dấu của ông. Đối với ông Hai khi ấy, tình yêu làng và tình yêu đất nước đã chan hòa làm một trong tình cảm và nhận thức của ông.

Những ngày đầu kháng chiến, ông luôn luôn tự hào về việc làng Dầu của mình đã tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Ngay bản thân ông cũng đã nhiệt tình cùng với mọi người đi đào đường, đắp ụ để cản giặc và ông tha thiết muốn ở lại làng để trực tiếp chiến đấu. Nhưng sau đó ông Hai phải theo vợ con tản cư đến một làng khác. Nỗi nhớ làng không nguôi, ở nơi tản cư, ông đã tin tức về kháng chiến. Không đọc được báo, ông đã tìm hỏi tin cho bằng được. Trước tin một em bé ở ban tuyên truyền xung phong dũng cảm cắm cờ lên Tháp Rùa; một anh trung đội trưởng giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng, ông Hai cứ tấm tắc khen: “Khiếp thật! Tinh là những người giỏi cả”. Ngoài việc khâm phục những người anh hùng trong kháng chiến, ông Hai còn hả hê trước thất bại của địch: “Chỗ này giết được tên Pháp với hai tên việt gian, chỗ kia phá đổ một xe tăng và một xe díp“ruột gan của lão cứ múa cả lên, vui quá”.

Nhưng không có gì đâu đớn, tủi nhục cho ông Hai bằng khi nghe một người đàn bà tản cư từ dưới xuôi lên nói: “Cả làng chúng nó (làng Dầu) việt gian theo Tây”, “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông à!”, “cổ ông Hai cứ nghẹn lại, da mặt tê rân rân”. “Ông lặng đi tưởng như không bao giờ thở được”. Khi nghe tin làng theo giặc, niềm tự hào bao lâu bỗng chốc tan tành, sụp đổ trong tâm hồn ông. Giá không yêu nơi sinh trưởng của mình, ông đâu cảm thấy đau đớn và nhục nhã đến thế. Ông vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng, “cúi gằm mặt xuống mà đi”. Về đến nhà, “ông nằm vật ra giường”, nước mắt ông cứ tràn ra. Khi nhìn đàn con, chưa bao giờ ông đau đớn đến thế, nghĩ rằng: “Chúng nó là trẻ con làng việt gian đấy ư?”

Ông Hai căm ghét bọn phản bội làng, phản bội Tổ quốc. Nỗi đau đớn và nhục nhã và lo sợ của ông lên tới cao độ khi nghe tin nhân dân địa phương có người làng Dầu tản cư đến là họ tẩy chay dân làng ông, “đến đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi”, ngay mụ chủ nhà cũng đã đuổi khéo vợ chồng, con cái ông ra khỏi nhà. Trước tình cảnh ấy, ông Hai bế tắc nhưng nhất định không chịu trở về làng: “Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”.Cũng không thể đi đâu, ở đâu, người ta cũng đuổi người làng chợ Dầu của ông.

Từ đau đớn nhục nhã như thế, ông Hai lại biết bao vui sướng khi nhận được tin làng ông bị giặc phá, nhà ông bị giặc đốt. Nghĩa là làng Dầu của ông không hề theo giặc. “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ, đốt nhẵn rồi”. Ông Hai cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy cho mọi người. “Vui mừng vì nhà mình bị đốt!” một niềm vui thể hiện một cách đau xót và đầy xúc động thể hiện tinh thần yêu nước, yêu cách mạng của người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Nỗi vui mừng của ông Hai ở đây thật vô bờ bến. Ông hào phóng mua quà cho các con, ông muốn san sẻ niềm vui sướng ấy cho mọi người trong đó có cả mụ chủ nhà từng gieo cho ông nhiều nỗi bực dọc, căm tức.

Từ một người yêu mến đắm say làng mạc của mình, ông Hai đã gắn tình yêu ấy với tình yêu đất nước, chính vì thế mà làng Dầu của ông có như thế nào đi nữa, ông vẫn một lòng, một dạ ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Cụ Hồ.

  • Kết bài:

Thật đúng như nhà văn I-li-a Ê-ran-bua nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Quả thật, ông Hai là hình ảnh đẹp của những người nông dân bình thường nhưng giàu lòng yêu nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây (1946-1954). Nhà văn Kim Lân đã có những thành công trong việc xây dựng hình tượng người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp với những tình cảm chân thực và thăm đượm tình yêu quê hương, đất nước.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang