Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.
- Mở bài:
Kim Lân là một trong nhưng nhà văn viết ít nhưng thành công lớn trong sự nghiệp viết văn. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo, vừa đi làm vừa viết văn, sống gần gũi với người nông dân nên những trang viết của ông tái hiện đầy đủ và chân thực nhất hình ảnh người nong dân Việt Nam trước và sau cách mạng. Tuy viết ít nhưng ngòi bút Kim Lân vững vàng. Ông viết bằng cả tâm hồn, tình cảm của một đứa con đẻ của đồng ruộng với niềm trân trọng con người sâu sắc nhất. Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy của Kim Lân
- Thân bài:
Truyện ngắn “Vợ Nhặt” có tiền thân là tiểu thuyết xóm ngụ cư. Đây là cuốn tiểu thuyết mà Kim Lân Viết ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công nhưng còn dang dở sau đó bị mất bản thảo. sau năm 1954, Kim Lân viết lại dựa một phần trên cốt truyện cũ và đặt tên là vợ nhặt. Giá trị lớn nhất của truyện ngắn “Vợ Nhặt” đó là tố cáo xã hội đã đề con người và nạn đói khủng khiếp khiến mạng người bị coi rẻ như cỏ rác. Tác phẩm còn mang giá trị nhân văn sâu sắc là niềm tin của người dân lao động vào sự sống và tương lai, niềm tin và khát khao về tình yêu, hạnh phúc.
Thành công của Kim Lân trong Vợ nhặt là đã xây dựng được một tình huống truyện éo le, độc đáo, đau xót và thấm đẫm tình người. Tình huống ấy éo le, độc đáo ở hình ảnh nhân vật Tràng – nhân vật chính của tác phẩm. Tràng là con nhà nghèo, xấu trai, lại là dân ngụ cư nay đây mai đó bị mọi người khinh bỉ. Anh lấy vợ giữa lúc đói kém cùng cực nhất mà người đó là vợ nhặt. Tình huống trớ trêu ấy khiến cho ta đau xót: sẽ không ai lấy Tràng nếu như không có hoàn cảnh như vậy. Tình huống thấm đẫm tình người: tất cả mọi người đều yêu thương nhau dù nạn đói đang hoành hành dữ dội.
Ở nhân vật Tràng là sự đối lập gay gắt giữa vẻ ngoài xấu xí với tâm hồn cao đẹp bên trong. Tràng xuất thân là con nhà nghèo, lại là dân ngụ cư. Cái thân phận dân ngụ cư đã nói hết cái nghèo khó của hắn rồi. Nghĩ đến tương lai của hắn không có gì là hi vọng. Như bao con người khác, hắn cũng bị lãng quên ngay trong chính cuộc đời này. Thế mà hắn lại còn có một ngoại hình xấu xí và thô kệch. Cái đầu cạo trọc trong gớm gớm. Cái lưng bè to như lưng gấu. Hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều. Hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn. Mỗi khi đi làm về, cái áo nâu tàn vắt sang một bên cánh tay. Dáng đi lù lù, lúc nào cũng chúi về đằng trước. Hình như những lo lắng vật chất trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn.
Ngoại hình của Tràng xấu xí, thô kệch nhưng không phải là kiểu biến dạng như nhân vật Chí Phèo. Cuộc sống tự nhiên của hắn đã thế rồi. Hắn chưa bao giờ tự làm thay đổi nó. Hắn lại là người khá vui tính. Người lớn ít nói chuyện với hắn nhưng bọn trẻ con thì bám riết và chơi đùa với hắn mỗi khi hắn đi làm về ngang xóm ngụ cư buồn tẻ. Bên trong cái hình thức xấu xí, đáng sợ ấy lại ẩn chứa một tâm hồn vô tư cao đẹp và giàu lòng yêu thương. Trước tình cảnh đáng thương của người khác, hắn đã rộng lòng cưu mang. Hắn vui vẻ mời người đàn bà xa lạ mà hắn đã gặp những lúc kéo xa thóc lên tỉnh ăn bánh đúc khi thấy thị lờ đờ trong cái đói dù hắn cũng chẳng có gì sung sướng hơn. Câu nói nửa đùa nửa thật của hắn với người đàn bà: “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng rồi cùng về” có thể xuất phát từ sâu thẳm con tim hắn mà hắn chưa bao giờ dám chạm tới.
Đưa người đàn bà xa lạ về nhà làm vợ là hành động liều lĩnh nhất của tràng. Nói nó liều lĩnh là bởi vì đời hắn đói khát, nay còn thêm một người nữa biết có nuôi nhau nổi không. Cái chết hiện hình ngay trong cuộc sống chứ đâu phải chuyện đùa. Sự liều lĩnh đó hóa ra lại là khát khao hạnh phúc của người đàn ông nghèo khổ. Cứ cho rằng đó là bản năng sống của người đàn ông nhưng nó toát lên vẻ đẹp của sự trưởng thành,chín chắn trong nhận thức và hành động của Tràng. Sự kết hợp của hai số phận đã tạo nên sức mạnh vươn lên của con người. Điều đó thể hiện ngay vào sáng hôm sau. Khi thức giấc, Tràng có cái nhìn thay đổi đối với cái nhà, sân vườn và những người thân yêu xung quanh hắn. Hắn thấy mình nên người, nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Hắn cũng thấy thương yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Từ đó hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.
Nhân vật Tràng không đẹp về ngoại hình nhưng đẹp về tính tình, đẹp ở tấm lòng, ở tình yêu thương con người. Qua ngòi bút miêu tả, phân tích những diễn biến tâm lí cùng với vốn ngôn ngữ đời thường của nhà văn Kim Lân, nhân vật Tràng hiện lên với đầy đủ những nét đẹp mang chất nhân văn, nhân bản của người nông dân nghèo ở vùng nông thôn Việt Nam trong nạn đói những năm 1945.
Nhân vật bà cụ Tứ cũng được nhà văn dành cho những trang viết vô cùng cảm động. Bà cụ Tứ là một bà mẹ nghèo, lam lũ, từng trải và có tấm lòng nhân hậu. Bà cụ Tứ xuất hiện trong dáng vẻ già nua, dáng đi thì lọng không, tiếng ho “húng hắng”, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán. Nhà văn đã thể hiện rất chân thực và sâu sắc diễn biến tâm trạng của bà Tứ khi Tràng đưa người “vợ nhặt” về nhà.
Buổi chiều, khi về đến nhà bà lão vô cùng ngạc nhiên khi thấy có người đàn bà ở trong nhà. Bà tự hỏi: “quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”. Và bà lại càng ngạc nhiên hơn khi người đàn bà ấy lại chào bà bằng u. Bà xửng sốt: “Sao lại chào mình bằng u? không phải con cái Đục mà. Ai thế nhĩ?”. Ngay cả khi Tràng nhắc bà “kìa nhà tôi nó chào u” thì bà vẫn chưa hiểu bởi bà không ngờ rằng có người chấp nhận lấy con mình và cũng không ngờ rằng con bà lại dám lấy vợ vào lúc đói kém nhất này. Bao nhiêu câu hỏi là bấy nhiêu sự ngạc nhiên đối với bà. Đến khi hiểu ra cơ sự, trong lòng người mẹ nghèo ấy ngổn ngang bao nỗi niềm. Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Trong lòng bà lão trào dâng sự buồn tủi “chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi những mong sinh con đẻ cái sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Nhưng khi nhìn người đàn bà tiều tụy vì đói bà hiểu vì sao mà người ta chấp nhận theo không con mình. Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được.
Bà lão thực sự cảm thấy tủi hờn là buồn bởi bà là mẹ mà không lo nổi hạnh phúc cả đời cho con mình. Bà tự an ủi mình: “thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… may ra qua cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo cho hết được?”. Là một người mẹ từng trải qua nên bà cảm thấy lo lắng cho hạnh phúc của con. Bởi chúng lấy nhau trong lúc đói kém này biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói khát này không. Nhưng rồi tấm lòng nhân hậu của bà cũng rộng mở để đoán nhận người con dâu không cưới hỏi ấy. Mở lời bà động viên, không giấu nổi niềm vui của mình: “ừ, thôi hai đứa phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Bà lão mừng, vui vì con mình có được vợ. Nhưng niềm vui ấy của bà đã bị những lo lắng ghì chặt xuống khiến bà “nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy ròng ròng”.
Trong cái bức tranh ảm đạm, đen tối ấy có lẽ bà cụ Tứ chính là điểm sáng tươi đẹp bởi chính bà lão lại là người vẽ ra viễn cảnh cho cuộc sống tươi sáng sau này. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, bà nói với hai con toàn những chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Tình cảm của bà cụ Tứ đối với con không phải là tình mẫu tử sâu nặng mà còn thể hiện đạo lí tốt đẹp của con người, đó là sự cưu mang che chở lẫn nhau của những con người cùng cảnh ngộ.
Dù Kim Lân không dành cho nhân vật “người vợ nhặt” nhiều trang viết nhưng chính “thị” là hiện thân cho sự khốc liệt của cái đói. Hình ảnh “thị” hiện lên xót xa đến tội nghiệp, thị thậm chí không có lấy một cái tên, thân hình tiều tụy rách rưới. Chính cái đói đã khiến cho thân hình của thị bị tàn phá một cách ghê gớm khiến cho Tràng trong lần thứ hai gặp lại “thị” Tràng cũng không nhận ra. Cái đói, cái khát, cái tuyệt vọng khiến cho thị “hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy xọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Cũng chỉ vì cái đói, vì miếng ăn mà thị mất đi cả nữ tính. Thị trơ trẽn đến mức đòi hỏi để được ăn. và khi được ăn thì “thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc chẳng trò chuyện gì”. Và chỉ bằng một câu nói vu vơ nửa đùa nửa thật của Tràng mà thị đã mạnh dạn chấp nhận theo không người khác cũng chỉ vì cái đói.
Tuy nhiên bản chất của thị cũng không phải là người xấu và điều đó đã chứng minh khi thị theo Tràng về làm vợ. Hình ảnh một người đàn bà cong cớn, trơ trẽn lúc ban đầu đã được thay thế bằng một con người khác hẳn. Thị trở nên rón rén, e thẹn và có vẻ ngượng nghịu. Đáng chú ý nhất là hình ảnh “thị” trong buổi sáng đầu tiên ở nhà Tràng, “thị” đã hoàn toàn trở thành một con người khác. Tràng nhận ra “nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gỉ chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Phải chăng chính tình thương yêu giữa con người với con người đã cảm hóa “thị”, đã làm thay đổi hoàn toàn con người “thị”.
Tình người thấm đẫm qua bữa sáng nghèo khó. Để đón mừng con dâu mới, buổi sáng hôm sau, bà lão đã dậy thật sớm chuẩn bị bữa ăn sáng thịnh soạn. Đến khi Tràng đã trở dậy, bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh cái mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy, vừa cười khoe món chè khoán “ngoan đáo để”. Nhìn bát cháo cám, ai cũng ngậm ngùi. Cái hạnh phúc nhỏ nhoi ngay lập tức đứng trước nhũng đe dọa khủng khiếp của cuộc sống nghèo khó ấy. Ai cũng thấu hiểu và thầm động viên nhau vượt qua.
Với nồi cháo cám, bà cụ Tứ vừa mừng đón dâu mới, vừa cố tạo niềm vui dù là mỏng manh cho hai con. bà không ngừng tạo động lực, cổ động, thúc giục chúng vươn lên. Đời bà đã khổ, bà chẳng sợ, chúng còn trẻ thì sợ gì khổ chứ. Bà vẫn tin khổ tận cam lai. Rồi một ngày nào đó cái khổ sẽ qua đi, đây chính là cơ hội để chúng có một gia đình đúng nghĩa. Hi vọng và niềm tin của người nông dân về cuộc sống trong hoàn cảnh cơ cực, bi đát nhất vẫn nồng ấm. Họ cần đứng tựa vào nhau để sống, để đi tiếp cho đến hết cuộc đời.
Chi tiết bát chè khoán là một hình ảnh đặc sắc phơi bày tình cảnh vô cùng thảm hại của người dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nó còn thể hiện tấm lòng thương người, thương con, đôn hậu của người mẹ già nghèo khổ. Chi tiết độc đáo thấm đượm giá trị nhân đạo cao cả và chứa đựng giá trị hiện thực sâu sắc trong tác phẩm.
Thông qua việc Tràng có vợ giữa những ngày đói khủng khiếp và những nét tâm lí trái ngược ở các nhân vật, nhà văn Kim Lân đã có thấy thảm cảnh hết sức thê thảm của những con người nghèo khổ trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu đồng bào ta.
Kim Lân chẳng cố công đi tìm sức mạnh đấu tranh ở đâu cả. Ông nhẹ nhàng đi vào đời sống bình thường nhưng chan chứa tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của người nông dân để phát hiện, trân trọng và ca ngợi. Bởi thế, ông không đi theo bề rộng mà đi theo bề sâu của nghệ thuật. Nghệ thuật xuất phát từ cuộc sống và quay trở lại phục vụ cho cuộc sống ấy. Với truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân xứng đáng là một trong những nhà văn xuất sắc nhất viết về đề tài người nông dan Việt Nam trước cách mạng.
- Kết bài:
Vợ nhặt là bài ca ca ngợi sự sống. Trong lúc nạn đói diễn ra, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào nhưng những con người nghèo khổ vẫn không mất đi tình thương, sự cưu mang đùm bọc, vẫn không mất đi khát vọng hạnh phúc. Những con người nghèo khổ họ biết dựa và nhau để hướng tới một tương lai tươi sáng hơn. Tác phẩm còn chỉ ra con đường giải phóng cho những con người nghèo khổ: Chỉ có thể đi theo cách mạng để tự giải phóng, để thoát khỏi đói nghèo cơ cực. Chính vì lẽ đó tác phẩm “Vợ nhặt” còn mang một giá trị nhân đạo mới.