»» Nội dung bài viết:
Phân tích ý nghĩa và giá trị truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
- Mở bài:
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Vì gắn bó với chiến trường Tây Nguyên nên ông hiểu biết sâu sắc và viết rất thành công về thiên nhiên và con người ở vùng đất này. Rừng xà nu là tác phẩm nổi bậc nhất của ông trong giai đoạn kháng Mĩ cứu nước.
- Thân bài:
Tác phẩm được viết năm 1965, in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Thời gian này Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam, và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc, chiến trường Tây Nguyên cũng đang hồi sôi động. Cả nước đang trong không khí sục sôi đánh Mĩ.
Mở đầu tác phẩm là hình ảnh rừng xà nu bị tàn phá “hàng vạn cây không cây nào không bị thương” dù nằm trong tầm đại bác của giặc, nhưng vẫn có sức sống mảnh liệt, bền bỉ. Nhân vật chính trong truyện chính là Tnú. Sau ba năm đi bộ giải phóng, Tnú nghỉ phép về thăm làng. Đêm đó dân làng tụ họp mừng anh về và lắng nghe cụ Mết kể lại cuộc đời Tnú cùng trang sử chiến đấu của dân làng Xô man.
Tnú vốn là đứa trẻ mồ côi cha mẹ được dân làng nuôi dưỡng, đùm bọc. Tuy nhỏ nhưng Tnú đã biết nuôi giấu cán bộ, làm giao liên, đi liên lạc cho anh Quyết, được anh dạy chữ, dìu dắt. Bị giặc bắt phải đi tù, Tnú vượt ngục trở về thì anh Quyết đã hi sinh. Tnú thay anh Quyết lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí chờ thời cơ nổi dậy đánh giặc. Tin làng Xô-man mài giáo, mài rựa đến tay bọn giặc, chúng vây làng quyết bắt cho được A, A cùng nhiều thanh niên thoát được ra rừng, không tìm được A giặc bắt vợ con anh ra tra tấn.
Tận mắt chứng kiến cảnh đau đớn ấy, A xông ra cứu vợ con, nhưng mẹ con Mai vẫn bị chết còn anh thì bị giặc bắt và tra tấn dã man.Chúng lấy nhựa xà nu đốt cháy 10 đầu ngón tay nhưng anh không hề kêu than. Sự tàn bạo cảu chúng đã làm cho lòng căm thù giặc lên đến cao độ, tất cả dân làng dưới sự chỉ huy của cụ Mết đã xông lên tiêu diệt bọn giặc cứu A. Tuy các ngón tay chỉ còn lại hai đốt, A vẫn gia nhập bộ đội để giết giặc.
Sáng hôm sau, A lại ra đi, cụ Mết và Dít tiễn anh lên đường. Cả ba người nhìn ra xa và thấy “rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời”.
Ý nghĩa nhan đề tác phẩm “Rừng xà nu”.
Nguyễn Trung Thành đã thể hiện toàn bộ tư tưởng của tác phẩm qua nhan đề Rừng xà nu. Nhan đề “Rừng xà nu” là một sang tạo nghệ thuật đặc sắc của nhà văn. Đây là hình ảnh trung tâm vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu tượng độc đáo. Về nghĩa tả thực, Rừng xà nu là hình ảnh của thiên nhiên Tây Nguyên, tuy bị tàn phá dù trong chiến tranh nhưng vẫn có sức sống mãnh liệt. Về nghĩa biểu tượng, Rừng xà nu là biểu tượng cho con người (dân làng Xô Man nói riêng, đổng bào Tây Nguyên, nhân dân Việt Nam nói chung) trong công cuộc đấu tranh chống Mĩ với số phận đau thương cùng sức sống mãnh liệt và phẩm chất anh hùng.
Nhan đề còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi của truyện ngắn. Tác phẩm đã tái hiện được vẻ đẹp tráng lệ hào hung của núi rừng, của con người và của truyền thống văn hóa Tây Nguyên. Đồng thời đã đặt ra một vấn đế có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.
Hình tượng cây xà nu.
Cây xà nu, rừng xà nu là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Nó xuất hiện ngay từ những dòng đầu tiên, xuyên xuốt qua tác phẩm rồi cuối cùng đóng khép lại câu chuyện.
Xà nu là loại cây họ thông nhựa và gỗ đều rất quí, mọc nhiều ở Kom tum _là thiên nhiên mênh mông, hung vĩ ở Tây Nguyên. Ở trong tác phẩm, rừng xà nu là không gian sống của người Xô Man Cây xà nu gắn bó mật thiết với dân làng: nó luôn có mặt trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, tham dự vào những sự kiện trọng đại của buôn làng, và thấm sâu vào nếp suy nghĩ, cảm xúc của họ. Chính cụ Mết từng tự hào “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”.
Hình tượng rừng xà nu vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu tượng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên. Rừng bị bom Mỹ tàn phá nặng nề là biểu tượng cho những đau thương mà nhân dân Tây Nguyên phải gánh chịu.
Nằm trong tầm đại bác của giặc, nên cả khu rừng xà nu hang vạn cây không có cây nào không bị thương. Nỗi đau hiện lên với nhiều hình dạng. Có những cây con bị đại bác chặt đứt làm đôi, “nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành lại được, cứ loét mãi, năm mươi hôm thì cây chết”. Có những cây đã trưởng thành bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, nhựa ứa ra tràn trề, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyền thành từng cục máu lớn.
Cánh rừng xà nu bị bắn phá và thương tích mà rừng xà nu phản cảnh những đau thương của một thời mà cả dân tộc ta đã phải gánh chịu. Hình ảnh cánh rừng xà nu bị bắn phá gợi nghĩ đến những mất mát đau thương mà đồng bào Xô-man đã phải trải qua trong thời kì cách mạng miền Nam bị khủng bố khốc liệt. Không bữa nào nó không đi lùng. Không đêm nào chó của nó và súng của nó không sủa vang cả rừng…Ngọn roi của nó không từ một ai, tiếng kêu khóc dậy cả làng. Cảnh chúng đàn áp, giết hại dân làng dã man. “Nó treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng”, “Nó giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, tra tấn me con Mai đến chết…
Sức sống bất diệt của rừng xà nu là biểu tượng cho sự kiên cường bất khuất của nhân dân Tây Nguyên. Cây xà nu sinh sôi rất khỏe “cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên”, “đại bác bác không giết nổi chúng”, với sức sống mãnh liệt, chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã. Cứ thế, những cánh rừng xà nu “ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng”.
Hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu giúp ta liên tưởng đến sự kiên cường bất khuất của nhân dân Xô Man. Thế hệ này tiếp bước thế hệ khác cùng đoàn kết bên nhau đứng lên kháng chiến chống kẻ thù tàn bạo. Anh Quyết hy sinh đã có Tnú và Mai. Mai ngã xuống thì Dit lớn lên tiếp bước, bé Heng cũng sẵn sàng tiếp bước thế hệ đàn anh..)
Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời luôn hướng đến sự sống: “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng” gợi lên hình ảnh người dân Xô Man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chun với khát vọng tự do, phóng khoáng dù chịu nhiều đau thương mất mát nhưng vẫn một lòng hướng về Đảng, về Cách mạng với niềm tin tuyết đối: “Đảng còn thì núi nước này còn”.
Cây xà nu tượng trưng cho số phận đau thương và phẩm chất anh hùng của dân làng Xô man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. hình tượng cây xà nu được xây dựng với cảm hứng sử thi hoành tráng, bút pháp lãng mạn, kết tinh giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.
Vẻ đẹp rừng xà nu tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên và của tâm hồn người dân Tây Nguyên. Cánh rừng xà nu được miêu tả có sự hòa hợp giữa sắc màu, hình khối, mùi hương, ánh sáng…Vẻ đẹp lạ lùng, gây ấn tượng khó quên trong lòng người đọc: “ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra…thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt…thứ ánh nắng…rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng”.
Rừng xà nu tạo thành một bức tường vững chắc hiên ngang truớc bom đạn cũng là biểu trưng cho sức mạnh đoàn kết của người dân Tây Nguyên khiến kẻ thù phải kiếp sợ. Vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Nguyên cũng chính là vẻ đẹp trong tâm hồn người làng Xô Man. Họ mang trong mình tâm hồn phóng khoáng, yêu tự do, yêu Tổ quốc, một lòng đi theo Đảng, theo cách mạng, kiên cường bất khuất.
Khi miêu tả rừng xà nu, tác giả nhiều lần sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tạo nên một sự hòa nhập tương ứng giữa con người và thiên nhiên. Thiên truyện được mở đầu và kết thúc bởi hình ảnh những đồi xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời đã gợi vẻ đẹp tráng lệ hào hùng của núi rừng Tây Nguyên, là biểu tượng cho ý chí kiên cường bất khuất, sự trường tốn bất diệt của các thế hệ cách mạng Tây Nguyên nói riêng và co cả miền Nam Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Hình tượng nhân vật Tnú.
Rừng xà nu là chuyện của một đời người được kể trong một đêm, là chuyện về cuộc đời đau thương nhưng anh dũng của nhân vật Tnú được cụ Mết kể cho dân làng nghe trong đêm Tnú về thăm làng nhằm giáo dục tinh thần yêu nước truyền thống anh hùng của dân làng.
Tnú người dân tộc Strá. Anh mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của dân làng Xô Man, đặc biệt là cụ Mết. Tnú đến với cách mạng từ rất sớm, từ những ngàu gian khổ, ác liệt nhất. Ngay từ nhỏ, anh đã có điều kiện được học chữ, nuôi ước mơ lớn lên theo anh Quyết làm cán bộ.
Tính cách của Tnú được khắc họa qua hành động và lời nói hết sức đậm nét. Anh là một người gan góc, dũng cảm, mưu trí. Lúc nhỏ chứng kiến bà Nhan, anh Xút và nhiều người khác bị giặc giết vì nuôi giấu cán bộ nhưng Tnú vẫn không sợ. Anh vẫn tiếp tục tiếp tế lương thực cho cán bộ và làm liên lạc cho anh Quyết.
Tnú cũng rất thông minh và nhanh trí. Khi liên lạc “không bao giờ nó đi đường mòn”, bởi anh biết giặc thường hay mai phục những chỗ ấy. Khi qua sông, anh không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác thác mạnh mà bơi ngang. Có lần bị giặc phục kích bắt được, A nhanh trí “nuốt luôn cái thư”.
Tnú tuyệt đối trung thành với cách mạng. Học chữ thua Mai, “nó cầm hòn đá, tự đập vào đầu, cháy máu ròng ròng” không thèm học nữa. Thế nhưng nghe lời anh Quyết, Tnú đã cố gắng học tốt để lớn lên làm cán bộ cách mạng. Bị giặc bắt tra tấn, đánh đập dã man cậu bé Tnú vẫn không khai công sản ở đâu. Sau ba năm tù, Tnú vượt ngục trở về làng, vẫn không từ bỏ lí tưởng. Anh thay anh Quyết lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí một lòng theo Đảng đánh giặc.
Tnú kiên cường bất khuất có tính kỉ luật cao. Khi buôn làng bị càn quét, vợ con bị giặc giết chết dã man, còn anh thì bị kè thủ đốit mười đầu ngón tay, Tnú vẫn không kêu van, vẫn chịu đựng kiên cường. Mất vợ con, hai bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt, thương tích cả thể xác lẫn tâm hồn, nhưng Tnú không gục ngã, vẫn tham gia lực lượng vũ trang quyết tâm tiêu diệt kẻ thù tàn ác. Nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của cấp trên Tnú mời về thăm, nhưng chỉ ở nhà một đêm đúng quy định trong giấy phép.
Tnú là một người giàu tình yêu thương. Anh yêu thương và gắn bó với những cánh rừng xà nu với bản làng của người dân Strá mộc mạc thuần hậu.
Tnú yêu thương vợ con tha thiết: Khi chứng kiến giặc dùng thủ đoạn hèn hạ bắt mẹ con Mai tar tấn đánh đập dã man bằng gậy sắt, anh đau đớn đến tệ dại “bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”, “Ở chỗ hai con mắt anh bây giở là cục lửa lớn”. Không cầm lòng được, “A đã nhảy xổ vào giữa bọn lính” hai cánh tay như hai cánh lim chắc ôm chặt lấy mẹ con Mai, bảo vệ vợ con bất chấp nguy hiểm cho bản thân.
Tnú biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân để dũng cảm chiến đấu, trả thù cho quê hương và gia đình. Khi xông ra cứu vợ con, anh bị bắt, bị đốt mười đầu ngón tay, Tnú quyết không kêu van à tiếng thét của anh trở thành hiệu lệnh cho dân làng giết giặc. Dù mất vợ con, dù hai bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt, Tnú vẫn nén đau thương, tham gia lực lượng vũ trang để góp phần giải phóng quê hương… Trong câu chuyện kể về cuộc đời Tnú cho dân làng nghe, cụ Mết nhiều lần nhắc lại ý Tnú không cứu được vợ con như một điệp khúc day dứt, xót xa. Mục đích nhằm nhấn mạnh một hiện thực: Tnú chỉ với hai bàn tay trắng không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo nên anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân! Từ đó, khắc sâu chân lí “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Nhấn mạnh điều này, cụ Mết muốn nhắc nhở con cháu một điều hệ trọng là để sự sống được trường tồn không cò cách nào khác hơn là phải cầm vũ khí chống lại và tiêu diệt kẻ thù tàn ác. Đây là một nhận thức sâu sắc được rút ra từ nỗi đau của bản thân Tnú, của buôn làng
Số phận Tnú gắn liền với số phận cộng đồng Xô Man, đi từ đau thương đến cầm vũ khí đứng lên quật khởi.
Khi chưa cầm vũ khí:
Làng Xô Man bị giặc lùng sục, khủng bố. Chúng giết hại tra tấn dân làng dã man khắp nơi không bữa nào nó không đi lùng, súng và chó của nó sủa vang khắp rừng. Chúng đàn áp, giết hại dân làng dã man. Nó treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng. Nó giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng. Mẹ con Mau bị tra tấn đến chết. Tnú bị giặc đốt 10 đầu ngón tay bằng nhựa xà nu…
Khi đã cầm vũ khí:
Thằng Dục chết dưới lưỡi mác của cụ Mết, mười tên giặc chết dưới giáo mác của dân làng. Tnú được cứu sống. Lửa đẵ tắt trên mười đầu ngón tay anh. Bàn tay Tnú được hồi sinh. Tiếng cụ Mết như lời hiệu triệu của Đảng, của truyền thống bất khuất: “Đốt lửa lên…tất cả dân làng… mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác…” . Làng Xô Man ào ào sôi động, lửa đấu tranh ngùn ngụt cháy! Từ đó, làng thành làng kháng chiến một lòng theo Đảng đánh giặc, được no đủ, không còn sợ đói gạo, đói muối.
Tóm lại, Tnú là hình tượng là điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên, đồng thời làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mỹ là phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu để tự giải phóng của nhân dân.
Ngoài Tnú, các nhân vật chính diện khác như cụ Mết trầm ngâm, lừng lững như cây cổ thụ, tiêu biểu cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền thống của dân tộc Tây Nguyên đến vẻ đẹp mảnh mai, hiền diệu nhưng đầy cứng rắn, kiên quyết của Dít như một hậu thân trự tiếp của Mai; bé Heng như cây xà nu mới lớn, tuy còn non trẻ nhưng đã cho người đọc thấy hình ảnh của cây xà nu vạm vỡ tràn đầy sức sống của ngày mai.
Nhân vật cụ Mết – cây xà nu lớn của núi rừng.
Cụ mết là già làng, đại diện cho những giá trị, phẩm chất và văn hóa tinh thần của làng Xô Man và của núi rừng Tây Nguyên, nhân dân Tây Nguyên.
Ngoại hình “Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu vẫn dài tới ngực, vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xéch ngược … Ông ở trần, ngực căng như cây xà nu lớn’, “Ông không bao giờ khen “Tốt! Giỏi!’, ông chỉ nói ‘Được!’”
Cụ Mết cũng là người quan tâm nhiều nhất đến Tnú, kể lại cuộc đời Tnú cho dân làng nghe. Cụ vừa là người nối kết thế hệ trẻ với truyền thống với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong công cuộc đấu tranh hiện tại đi đúng hướng. Cụ đã nói lên một cách giản dị chân lí lớn lao của thời đại “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Cụ Mết là người lãnh đạo dân làng cầm vũ khí quật khởi giết hết bọn giặc cứu Tnú và bảo vệ buôn làng. Dưới lưỡi mác dài của cụ là xác thằng Dục và bọn lính. Đêm đó làng Xô Man nổi dậy ào ào. Tiếng cụ Mết rền vang như lời của cah ông bất khuất “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người gài người trẻ người đàn ông người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ một cây rựa. Ai không có thì vót chông…”
Cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, là hiện thân của truyền thống, là kết tinh của sức mạnh, phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên,
Nhân vật Dít.
Xuất hiện trong tác phẩm không nhiều, nhưng Dít là hiện thân và nối tiếp của Mai. Dít là bí thư chi bộ, chính trị viên xã hội, là cô gái trẻ đầy nghị lực, đầy bản lĩnh và trưởng thành nhanh chóng trong đấu tránh cách mạng của làng Xô Man.
Nét tính cách nổi bật ở Dít đó là tính gan dạ, nhanh nhẹn từ nhỏ. Dít rất nhanh nhẹn “không ai lọt ra được. Chỉ có con Dít nhỏ nhanh nhẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, A và thanh niên…”. Kẻ thù uy hiếp tinh thần “đôi mắt nó thì nhìn bọn giặc, bình thản lạ lùng, bình thản như đôi mắt chị bí thư bây giờ vậy”.
Dít rất kiên quyết và rắn rỏi. Em cẩn thận kiểm tra giấy của Tnú khi Tnú về thăm làng. Không phải không biết Tnú, Dít muốn chắc chắn rằng Tnú được nghỉ phép trở về thăm làng chứ không phải tự ý trốn về. Em rất nghiêm khắc và trung thành với cách mạng. Thế nhưng, Dít cũng hết sức giàu tình cảm, đầy nữ tính.
Nhân vật bé Heng.
Heng là hình ảnh biểu tượng của cây xà nu mới lớn, hứa hẹn sẽ trở thành cây xà nu mạnh mẽ và bất tử để kế tục truyền thống của cha anh đi trước. Heng nhanh nhẹn, hoạt bác, thông minh, tinh nghịch. Nó đội một cái mũ sụp xin được của một anh giải phóng quân nào đó, mặc một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng ra vẻ một anh lính thực thụ.
Một thành cong khác của Nguyễn Trung Thành trong truyện ngắn rừng xà nu là đã vận dụng thành cong nhiều thủ pháp nghẹ thuật độc đáo, có sức biểu hiện cao. Không khí, màu sắc trong tác phẩm đậm chất Tây Nguyên thể hiện ở bức tranh thiên nhiên, ở ngôn ngữ tâm lí hành động cảu các nhân vật.
Nhà văn đã xây dựng các nhân vật vừa có nét các tính sống động, vừa mang những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu (Cụ Mết, Tnú, Dít). Đặc biệt, Nguyễn Trung Thành đã khắc họa thành công hình tượng cây xà nu, một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc, tạo nên màu sắc sử thi và lãng mạn bay bổng cho thiên truyện.
Rừng xà nu là truyện ngắn đậm chất sử thi. Truyện có lời văn trau chuốt , giàu hình ảnh , tái hiện được vẻ đẹp tráng lệ , hào hùng của núi rừng Tây Nguyên với những cánh rừng xà nu bạt ngàn và những thế hệ người dân Tây Nguyên anh hùng. Đó là bức tranh hoành tráng trong hình ảnh, trong âm hưởng với lời văn đầy nhịp điệu, khi vang động, khi tha thiết trang nghiêm.
Tính sử thi qua các hình tượng.
Tính sử thi của Rừng xà nu được biểu lộ trước hết ở những sự kiện có tính chất toàn dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xô man hoàn toàn không có ý nghĩa cá biệt. Chúng là chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền Nam, cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ. Tính thế bị o ép của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc sống đau thương của đồng bào miền Nam trong những ngày Mĩ – Diệm thi hành luật 10-59, khủng bố dữ dội những người yêu nước, những người kháng chiến cũ. Khi làng Xô Man đứng dậy thì gương mặt của làng lúc này lại chính là gương mặt của cả nước trong những ngày quyết tâm đánh Mĩ và thắng Mĩ – một gương mặt rạng rỡ, tự tin, điềm tĩnh đón nhận những thử thách mới.
Biểu hiện thứ hai của tính sử thi trong Rừng xà nu là truyện ngắn đã xây dựng thành công hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể tới trong đó đều có tính đại diện cao, mang trong mình hình ảnh của cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong Rừng xà nu là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng trong cuộc đời chung. Tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản : gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng. Chiến công của mỗi người tuy đa dạng mà thống nhất.
Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên không phải do riêng một người mà do tất cả mọi người viết ra. Bản trường ca của núi rừng không chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng hoà của nhiều giọng. Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng là những nhân vật tiêu biểu, nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ còn có bao người khác nữa cũng không chịu sống mờ nhạt, vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập công, đều muốn góp phần mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Dĩ nhiên, hình tượng văn học nào cũng là sự thống nhất giữa cái cá biệt và cái phổ quát, nhưng ở Rừng xà nu, cảm hứng hướng về cái chung đã mang tính chất chi phối.
Biểu hiện thứ ba của tính sử thi ở truyện ngắn Rừng xà nu là nó đã miêu tả các sự kiện, các nhân vật anh hùng từ một cái nhìn chiêm ngưỡng, khâm phục. Các chi tiết đời thường ít được nhắc tới. Nhà văn chỉ tâm đắc với những chi tiết nào có khả năng làm phát lộ được phẩm chất anh hùng của nhân vật. Tả cụ Mết, nhà văn chú ý tới giọng nói “ồ ồ dội vang trong lồng ngực” của cụ. Tưởng như trong tiếng cụ nói có âm vang của tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng của núi rừng, của lịch sử. Và quả thật, cụ là hình ảnh tượng trưng của truyền thống vững bền. Mỗi lời cụ thốt ra kết tinh trải nghiệm của cả một dân tộc. Nó cô đúc, sâu sắc, vang vọng như những chân lí. Chả thế mà cả làng Xô Man nghe như uống từng lời cụ nói và cả rừng xà nu cũng “ào ào rung động” như một sự hoà điệu, một sự tạo nền. Ngay cuộc đời của Tnú, một cuộc đời trải ra trong chính thời hiện tại cũng đã được lịch sử hoá và nhuốm màu huyền thoại. Đêm đêm bên bếp lửa nhà ưng, cụ Mết đã kể chuyện anh cho lũ làng, cho thế hệ con cháu nghe. Anh đã trở thành niềm tự hào của làng, là một biểu tượng sống động của người anh hùng được tất cả ngưỡng vọng, học tập.
Tính sử thi của Rừng xà nu còn thể hiện ở giọng văn tha thiết, trang trọng mà tác giả đã sử dụng khi kể về sự tích của làng Xô Man. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một cảm giác say sưa. Ta bị cuốn theo câu chuyện không gì cưỡng nổi, tưởng mình đang được tắm trên một dòng sông mênh mang, tràn trề sinh lực, hoặc tưởng mình đang bị thôi miên bởi một bản nhạc giao hưởng hùng tráng.
- Kết bài:
Rừng xà nu là bản trường ca hùng tráng ngợi ca tinh thần bất khuất, sức mạnh quật khởi của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói riêng, đất nước và con người Việt Nam nói chung trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và khẳng định chân lí của thời đại: để giữ gìn sự sống của đất nước và nhân dân, không có cách nào khác là phải cùng nhau đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù.