Qua nhân vật Phùng, hãy làm rõ những suy tư, chiêm nghiệm đầy tính triết lí của Nguyễn Minh Châu về cuộc đời và nghệ thuật.
Chiếc thuyền ngoài xa truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài đời tư – thế sự của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. Trong truyện ngắn này, nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật Phùng, nhân vật Tôi, người trần thuật tham dự, một nghệ sĩ nhiếp ảnh có tài có tâm. Phùng được khắc họa theo kiểu nhân vật tư tưởng. Qua câu chuyện kể và quá trình nhận thức của Phùng, nhà văn đã phát hiện và ca ngợi vẻ đẹp của người nghệ sĩ nhiếp ảnh ấy, một người vừa thiết tha với cái đẹp, tâm huyết với nghề lại có một trái tim giàu lòng trắc ẩn. Qua nhân vật này, nhà văn đã cho người đọc thấy hành trình tìm kiếm chân lí của chính mình.
Chiếc thuyền ngoài xa thuộc dạng truyện luận đề với việc Nguyễn Minh Châu đã đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa văn học và đời sống. Tuy vậy, nhà văn không biến nhân vật thành cái loa phát biểu luận đề. Thông qua câu chuyện kể về chuyến đi của một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng biển miền Trung để chụp ảnh nghệ thuật, với một cốt truyện nhiều tình huống bất ngờ với hệ thống nhân vật đa dạng, nhà văn đề cập đến tính trung thực của người nghệ sĩ, nêu lên mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và hiện thực cũng như những vấn để phức tạp của cuộc sống, kể cả bi kịch số phận con người.
Trước hết, vẻ đẹp của Phùng hiện ra trong hành trình kiếm tìm cái đẹp và lưu giữ cái đẹp. Trước khi là nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng từng là một người lính. Là người bước ra từ cuộc chiến, Phùng tự cho mình là người hiểu đời nhưng trước những biến đổi không ngừng của cuộc sống đã khiến Phùng phải suy tư trăn trở: “Đời chúng tôi, cái đám lính của một thời chống Mĩ, từ sau 1975 thật chẳng ít chuyện trớ trêu và bất ngờ.” Trong tư cách mới là một phóng viên, một nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng đã tự khám phá thêm về chính mình và cũng hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời, con người khi về vùng biển miền Trung theo yêu cầu của trưởng phòng để chụp một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù về bổ sung cho bộ lịch năm sau. Anh đã tìm về chiến trường xưa cách nơi làm việc 600 km để vừa tìm lại chính mình vừa thể hiện lòng yêu nghề, khát khao sáng tạo cùng trách nhiệm với công việc được giao.
Sau một tuần phục kích, lăn lộn, tìm kiếm, lựa chọn, thức khuya dậy sớm, đắn đo cân nhắc nhiều lần, anh đã chụp được một “cảnh đắt trời cho”: cảnh thuyền đánh cá thu lưới lúc bình minh. Đó là cảnh “thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi…”. Đó là một khung cảnh tuyệt mĩ với chiếc thuyền mơ mộng, thanh bình. Quả thực đây là bức họa kì diệu, mĩ lệ mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. Trong con mắt của người nghệ sĩ, khung cảnh vùng nước phá ấy thật thơ mộng, quyến rũ, một khung cảnh mà bất cứ người nghệ sĩ nào cũng mong muốn bắt gặp một lần trong đời làm nghệ thuật của mình. Phùng đã bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuộn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca của mình cái khoảnh khắc đẹp như mơ của thiên nhiên.
Khi bất ngờ gặp cảnh đắt trời cho ấy, Phùng đã “cảm thấy bối rối, trong tim như có cái gì bóp chặt vào, tâm hồn mình được thanh lọc”, gột rửa và một niềm hạnh phúc trào dâng trong lòng. Phùng như đã khám phá thấy “cái chân lí của sự hoàn thiện, cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Và tâm hồn anh vì thế ngập tràn hạnh phúc, cái ” hạnh phúc do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”. Đó còn là khoảnh khắc thăng hoa trong nghệ thuật. Cũng nhờ đó, anh đã chiêm nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Phùng vừa hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao cho, nhưng hơn cả là Phùng đã tìm thấy tuyệt tác nghệ thuật. Phùng đã phát hiện ra vẻ đẹp của thiên nhiên và đã ghi lại vẻ đẹp ấy trong những bức ảnh nghệ thuật của mình bằng tất cả sự nhạy cảm, tinh tế, say mê của một tâm hồn nghệ sĩ. Nếu không khát khao sáng tạo, không chấp nhận sự sao chép, đại khái, lặp lại và nếu không có sự rung động chân thành của một tâm hồn mẫn cảm thì Phùng không thể có được bức ảnh ấy và tâm trạng ấy.
Chỉ với những phẩm chất này, Phùng đã được đánh giá là một người nghệ sĩ chân chính. Có một điều mà bạn đọc cần lưu ý, đó là nơi nhà nhiếp ảnh ngồi bấm máy. Chẳng chốn Bồng Lai mà chỉ là một bãi biển còn đầy tàn tích chiến tranh với bao xác xe tăng, xe rà phá mìn của công binh Mỹ thua chạy bỏ lại. Phùng ngồi bấm máy phải “rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa”. Chi tiết này rất quan trọng, nó cho thấy cảnh biển mù sương và con thuyền trong bình minh tuy có đẹp, nhưng cái đẹp ấy chưa trọn vẹn.
Vết thương chiến tranh còn in hằn trên bãi biển và trong lòng ngư dân. Chỉ vì Phùng, với tâm hồn lãng mạn của người nghệ sĩ, anh mới thi vị hóa, thần tiên hoá hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa, để rồi sau đó, anh sẽ bị hụt hẫng khi chiếc thuyền đó về bờ.
Không chỉ có tâm hồn nhạy cảm, say mê cái đẹp, tâm huyết với nghề, Phùng còn là một con người có trái tim giàu lòng trắc ẩn, là người luôn trăn trở về thân phận con người và cuộc đời. Vẻ đẹp này được thể hiện rõ qua tâm trạng, thái độ và hành động của Phùng khi phát hiện ra những sự thật đằng sau chiếc thuyền đẹp như mơ khi nó về bờ và khi nghe câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện.
Phùng phát hiện ra đằng sau bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp kia là một cảnh tượng phi thẩm mĩ, chứ đựng những sự thật đau lòng về con người. Một hiện thực trần trụi đã mở ra trước mắt Phùng, khi chiếc thuyền ấy về gần bờ, Phùng đã trông thấy một người đàn bà “trạc ngoài bốn mươi, cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ, mệt mỏi”, đi sau là người đàn ông “cao lớn, dữ dằn, tấm lưng rộng và cong như lưng của một chiếc thuyền với hai con mắt đầy vẻ độc dữ”. Người đàn ông đi phía sau, không nói một lời, nhưng bỗng nhiên trở nên “hùng hổ, mặt mũi đỏ gay” dùng ngay chiếc thắt lưng vụt tới tấp vào người vợ. “Lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ”.
Người vợ bị chồng đánh đập một cách tàn nhẫn nhưng không kêu van, không chống trả cũng không chạy trốn, còn thằng con vì bảo vệ mẹ mà “giằng thắt lưng, rướn thẳng người, vung chiếc khóa sắt quật mạnh vào ngực cha rồi chính nó lại bị cha tát hai cái khiến nó lảo đảo ngã dúi xuống cát”. Người đàn bà lúc này mới “cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ , nhục nhã” vì đứa con đã nhìn thấy cảnh mình bị đánh đập. Bà mếu máo, ngồi xệp xuống, ôm chầm lấy con, vái lấy vái để, rồi khóc, “những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”.
Phùng “ngơ ngác nhìn” ra bờ phá khi người đàn bà buông đứa con ra, đi thật nhanh đuổi theo lão đàn ông vừa đánh mụ, rồi cả hai cùng đi về thuyền. Bãi cát hoang sơ mà mênh mông, tiếng sóng kêu ồ ồ cất lên. Bức ảnh thế sự ấy diễn ra “như trong truyện cổ quái đản”, chiếc thuyền vó đã biến mất, chắc đã làm cho cách nghĩ, tâm nhìn và cảm quan nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng thay đổi? Bức ảnh thế sự trần trụi ấy đã được Nguyễn Minh Châu kí hoạ, đã được nhà nhiếp ảnh Phùng mục kích và bấm máy thật giàu ý nghĩa. Nghệ thuật hướng về cái đẹp, nhưng không thể là sự lừa dối. Lãng mạn hoá cuộc đời, bôi hồng tô son hiện thực cuộc đời là vô nghĩa khi cuộc đời còn nhiều mồ hôi và nước mắt!
Phùng có thể coi đây là một chuyến đi nhiều ý nghĩa: chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì lại trần trụi, ở rất gần ngay trước mắt. Qua đó, ta càng thấy rõ một điều: chân lí cuộc đời có lúc không phải là chân lí nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu qua “Chiếc thuyền ngoài xa” đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với nhà nghệ sĩ chân chính giàu bản lĩnh. Thì ra đằng sau cái đẹp tuyệt mĩ mà Phùng vừa mới phát hiện lại là khung cảnh vô cùng tàn nhẫn, nơi mà bạo lực gia đình diễn ra hết sức khủng khiếp.
Ba ngày sau, cảnh tượng ấy lại tiếp diễn, nhưng lần này xuất hiện thêm con chị ngăn thằng em, không cho thằng em giết bố. Cảnh tượng đau lòng ấy đặt cạnh bức tranh thơ mộng kia chẳng khác nào một trò đùa ác, đầy trớ trêu, phi lí. Trước cảnh tượng ấy, người nghệ sĩ “kinh ngạc đến thẫn thờ”, “mấy phút đầu cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “chết lặng” rồi chính anh đã sẵn sàng vứt chiếc máy ảnh xuống để giúp đỡ người phụ nữ tội nghiệp, anh còn giận dữ lao ra can ngăn người đàn ông vũ phu bằng đôi bàn tay rắn chắc của người lính vì anh cho rằng“ bất luận hoàn cảnh nào cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ hắn”.
Vốn là con người ngay thẳng, nay gặp cảnh tượng tàn nhẫn với người đàn bà bất hạnh kia, anh không thể khoanh tay đứng nhìn, anh không thể làm ngơ trước nỗi đau của người khác. Cũng qua lời xác nhận của cô y tá : “đàn ông vạn chài ai cũng thế” càng giúp anh hiểu ra hiện thực của vùng nước phá mà thiếu chút nữa anh không nhận ra. Anh đã hiểu ra rằng tuy chiến tranh đã kết thúc nhưng nỗi khổ đau của con người thì vẫn còn, cái ác vẫn hiện hình trong cuộc sống tưởng đã bình yên này. Lúc trước, anh nghĩ mình đã thành công, nay thấy mình đã lầm. Anh không thể ngờ đằng sau vẻ đẹp diệu kì của tạo hóa kia lại có cái ác, cái xấu đến không thể tin được. Anh đau đớn nhận ra khi màn sương mờ ảo của bức tranh tan dần để lộ ra những đau thương của kiếp người. Cảnh tượng này đã giúp nghệ sĩ Phùng nhận thức đầy đủ và chân thực hơn về cuộc sống: cuộc sống vốn không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng rất nhiều nghịch lí, cuộc đời luôn tồn tại cả xấu – tốt, đúng – sai, rồng phượng – rắn rết. Bởi vậy, khi nhìn nhận bất cứ vấn đề nào cũng phải nhìn sâu, nhìn kĩ, đừng vội vã đánh giá sự vật hiện tượng qua vẻ bề ngoài của nó. Anh phát hiện ra cái đẹp tuyệt mĩ, nhưng đằng sau cái đẹp lại là cái xấu, là hiện thực trần trụi.
Chiếc thuyền ngoài xa chính là hình ảnh cuộc đời khi nhìn ở xa, khi quan sát với cái nhìn hời hợt. Bởi vậy, cần nhìn nhận con người, sự việc thấu đáo, toàn diện, thấy được bản chất bề bộn, biến động với những bất ngờ của cuộc đời .
Là một người có trái tim nhân hậu, giàu lòng trắc ẩn nên khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà tại tòa án huyện, Phùng càng nhận ra nhiều điều về cuộc đời, nhất là những vẻ đẹp còn khuất lập trong bề sâu tâm hồn con người. Sau khi bị thương, anh được đưa về trạm y tế của tòa án huyện. Ở đấy, anh đã gặp lại Đẩu, bạn chiến đấu năm xưa giờ là chánh án huyện. Và cũng tại đây, anh đã thấy sửng sốt, sững sờ và cảm thấy ngột ngạt khi nghe người đàn bà hàng chài vừa vái lạy vừa van xin quý tòa: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Lời nói ấy, hành động ấy cho thấy chị đã nhận hết tội về mình, dứt khoát không bỏ người chồng vũ phu đã đánh mình theo quy luật “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Phùng đã không kìm chế nổi cảm xúc của mình, từ chỗ ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa, anh đã bước ra ngoài, hỏi dồn dập người đàn bà nhiều câu hỏi: “Lão ta hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? Cả đời chị có lúc nào hạnh phúc không?”. Đó là sự tò mò, muốn biết nguyên nhân, muốn lí giải thái độ cam chịu, nhẫn nhịn kia của người đàn bà.
Đó cũng là cách Phùng bộc lộ thái độ bất bình của mình trước những ngang trái, bất công. Những câu hỏi đó còn cho thấy sự cảm thông, xót xa chân thành của Phùng dành cho người đàn bà bất hạnh kia. Lúc đầu Phùng tham dự trong tư cách người nghe, sau đó Phùng tham dự cuộc đối thoại với mục đích giải tỏa những thắc mắc băn khoăn, Phùng thành người trong cuộc, cùng Đẩu tìm cách giải thoát cho người đàn bà khỏi bất hạnh. Nhưng chính người đàn bà quê mùa thất học kia với những lí lẽ sắc sảo, của một người từng trải, thấu hiểu lẽ đời, giàu đức hi sinh, giàu lòng vị tha lại là người giúp Phùng và Đẩu ngộ ra nhiều chân lí cuộc đời mà lí thuyết sách vở chưa thấu tỏ. Phùng nhận ra cuộc đời này còn nhiều góc khuất, nhiều trái ngang mà nghệ thuật cần vươn tới. Qua đây một lần nữa chúng ta thấy Phùng là một người nghệ sĩ giàu lòng nhân ái, biết cảm thông, chia sẻ với những số phận bất hạnh, biết đấu tranh với cái xấu, cái ác để bảo vệ cái đẹp, cái thiện.
Cách Phùng quan tâm thấu hiểu người khác cũng là bài học cho nhiều người nghệ sĩ, bởi người nghệ sĩ không phải lúc nào cũng thấu suốt chuyện đời, nên khi làm nghệ thuật phải để tâm tìm hiểu, trực tiếp đối diện, đối thoại để có cái nhìn đúng đắn sâu sắc, yêu thương hơn đối với con người. Đó chính là triết luận sâu sắc của Nguyễn Minh Châu về trách nhiệm của người làm nghệ thuật với cuộc đời và con người được gửi gắm qua hình tượng nhân vật Phùng.
Sau chuyến đi thực tế, thành quả mà Phùng thu được là nhiều hơn những gì Phùng mong đợi. Phùng đã chụp được nhiều bức ảnh đẹp đem về khiến trưởng phòng rất hài lòng về anh. Anh lại có thêm những hiểu biết, những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, nhất là về nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn để cho hình ảnh chiếc thuyền xuất hiện ở cả phần đầu và phần cuối của tác phẩm gắn với những tâm trạng, suy nghĩ khác nhau của Phùng.
Sau khi gặp người đàn bà ở tòa án huyện, Phùng lại “khoác chiếc máy ảnh đi lang thang cho đến tận khuya”, rồi đêm đó trời đột ngột trở gió, biển bắt đầu gào thét, nhiều tàu thuyền đã tìm vào bờ để trú, duy ở giữa phá vẫn còn một chiếc thuyền lưới vó bè đang đậu. Nhìn chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá ấy, Phùng không khỏi suy nghĩ về cuộc đời. Ở đây, cuộc sống không hề lãng mạn, thanh bình như người ta thường thấy mà nhiều lúc nó vô cùng dữ dội, khốc liệt. Còn con người ở đây mà tiêu biểu là người đàn bà hàng chài kia tuy nhỏ bé nhưng thật mạnh mẽ bền bỉ để chống chọi, để giành giật, để tồn tại trong cuộc đời còn lắm nỗi nhọc nhằn.
Tất cả đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí của Phùng để mỗi một lần nhìn ngắm tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy, hình ảnh người đàn bà kia lại xuất hiện. Tuy là “bức ảnh đen trắng nhưng khi ngắm kĩ”, Phùng vẫn “thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”, hay là chất thơ của cuộc sống, là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu tượng của nghệ thuật. Khi ngắm lâu hơn, Phùng lại “thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lung áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lướt suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”. Người đàn bà kia đã trở thành hiện thân của những lam lũ, khó nhọc của đời thường.
Đây mới là sự thật cuộc đời, là đích đến của nghệ thuật chân chính. Phùng đã nhận ra một cách thấm thía về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật chân chính không bao giờ xa rời cuộc đời, thiếu bóng con người. Nghệ thuật không chỉ là nghệ thuật, vì nghệ thuật mà còn là cuộc đời, vì cuộc đời. Đó cũng chính là quan niệm nghệ thuật đúng đắn mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm qua hình tượng nhân vật Phùng.
Với cách kể chuyện hấp dẫn, cùng cách tạo dựng tình huống truyện độc đáo, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công nhân vật Phùng, một người nghệ sĩ vừa thiết tha với cái đẹp, tâm huyết với nghề lại có một trái tim giàu lòng trắc ẩn. Nhà văn không lấy những người hùng làm nhân vật trung tâm mà đi sâu tìm tòi, phát hiện vẻ đẹp ở những con người bình thường. Tác phẩm cũng là những đúc kết thấu đáo về nghệ thuật và con người qua những phát hiện khác nhau của Phùng. Qua phát hiện đầu tiên về bức tranh nghệ thuật của Phùng, nhà văn khẳng định: niềm vui lớn nhất của nghệ thuật chân chính là khám phá và lưu giữ cái đẹp, cái đẹp phải tự nhiên, phải hài hòa giữa thiên nhiên và con người, còn trách nhiệm của người nghệ sĩ là phải kiên trì vượt khó, say mê trong hành trình khám phá và lưu giữ cái đẹp ấy.
Đến phát hiện thứ hai về bức tranh hiện thực đời sống của Phùng, nhà văn lại đem đến thông điệp đầy ý nghĩa: trước khi là người nghệ sĩ, phải là một con người biết rung động trước nỗi đau, phải biết căm phẫn trước tội ác, biết hành động để cứu đồng loại. Còn phát hiện cuối cùng qua câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện, nhà văn khẳng định: đừng bao giờ nhìn nhận con người và cuộc đời dễ dãi, xuôi chiều, nghệ thuật chân chính phải gắn liền với cuộc đời, xuất phát từ cuộc đời và quay trở lại phục vụ cho cuộc đời còn người nghệ sĩ cần có tài, có tâm và có đôi mắt đúng, có trái tim biết yêu thương. Qua sự phân tích trên đây, ta có thể khẳng định lại một lần nữa, Phùng thuộc kiểu nhân vật tư tưởng, là nhân vật gửi gắm nhiều suy tư, chiêm nghiệm đầy tính triết lí của chính tác giả về cuộc đời và nghệ thuật.
“Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm có tình huống truyện rất độc đáo, hấp dẫn. Nó được thể hiện qua những phát hiện chân thực của nhân vật Phùng. Tình huống truyện đầy bất ngờ và chứa nhiều câu chuyện mà qua đó tạo bước ngoặt trong nhận thức của nhân vật về nghệ thuật và cuộc sống. Chính tình huống đã làm cho truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” vừa chân thực, vừa mang ý nghĩa phát hiện sâu sắc về đời sống.
Về ngôn ngữ, dường như tác giả rất dụng công trong việc tỉ mỉ điều khiển đội quân ngôn ngữ của mình. Truyện ngắn cho ta thấy được sự tài hoa của ngòi bút Nguyễn Minh Châu trong việc tả cảnh, tả người, dựng đối thoại hay kể chuyện. Bên cạnh đó là thứ ngôn ngữ đậm màu sắc triết lí, ngôn ngữ kể chuyện theo lối đổi ngôi khiến câu chuyện vừa khách quan vừa thuyết phục.
Về cách xây dựng nhân vật, nhà văn đã tạo ra những nhân vật vừa quen vừa lạ, có những vẻ đẹp khuất lấp, chứa đựng nhiều quan niệm về con người của Nguyễn Minh Châu. Về giọng văn thì thay đổi linh hoạt: lúc say sưa tả cảnh, lúc hài hước tự trào, lúc lại suy tư day dứt chiêm nghiệm,…
Nói tóm lại, “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu. Cốt truyện giản dị mà chứa đựng những tình huống mang tính khám phá về cuộc sống. Truyện ngợi ca con người và giãi bày những trăn trở của nhà văn về cuộc sống đa chiều, phức tạp với bao nhọc nhằn đè nặng lên số phận con người. Tác phẩm đặt ra vấn đề về cách nhìn nhận cuộc sống và con người, nhất là mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.
- Cảm nhận của anh (chị) về nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu
- Từ truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, anh/chị hãy phát biểu suy nghĩ về nạn bạo hành gia đình hiện nay
- Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, hãy làm tỏ những suy tư, chiêm nghiệm đầy tính triết lí của Nguyễn Minh Châu về cuộc đời và nghệ thuật.