thuyet-minh-cay-lua-nuoc

Thuyết minh cây lúa nước

Thuyết minh cây lúa nước.

  • Mở bài:

Lúa nước là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới, cùng với ngô, lúa mì, sắn và khoai tây. Theo quan niệm xưa lúa cũng là một trong sáu loại lương thực chủ yếu trong Lục cốc. Từ xa xưa, cây lúa nước đã gắn bó với con người Việt Nam, trở thành một phần không thể thiếu trong đời sốn hàng ngày.

  • Thân bài:

Nguồn gốc và lịch sử thuần hóa cây lúa nước:

Lúa nước là một loài thực vật thân cỏ, thuộc họ Poaceae, có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới khu vực Đông Nam châu Á và châu Phi. Cây lúa nước xuất phát đầu tiên ở vùng Đông Nam Á. Trong đó, Việt Nam có thể là nơi đầu tiên thuần hóa được loài cây này. Với điều kiện khí hậu nóng ẩm quanh năm và có điều kiện lí tưởng cho phát triển nghề trồng lúa, ngành lúa nước ở Việt Nam từ lâu đã rất phát triển và đạt được nhiều thành tựu sớm nhất. Từ Đông Nam Á, nghề trồng lúa được du nhập vào Trung Quốc, rồi lan sang Nhật Bản, Hàn Quốc và đi khắp thế giới. Đến thế kỉ 18, người Tây Ban Nha đã đem các giống lúa nước gieo trồng ở Nam Mỹ.

Phân loại các giống lúa nước:

Lúc ban đầu, lúa nước chỉ có vài loại cơ bản bao gồm giống lúa ưa cạn và giống lúa ưu nước. Giống lúa ưa cạn là giống lúa có thể phát triển ở vùng đất xốp không ngập nước. Nhưng nếu có ngập nước, giống lúa này vẫn phát triển tốt. Ngày nay, các tộc người thiểu số vẫn còn lưu giữ các giống lúa này. Giống lúa ưa nước là giống lúa được gieo trồng trên các vùng đất có nước ngập thường xuyên. Cây lúa phát triển tốt khi có nước ngâm ở chân.

Với trình độ phát triên cao của khoa học, nhờ công nghệ lại tạo, người ta đã lai tạo được nhiều giống lúa mới  có chất lượng gạo cao, dẻo, thơm, dễ gieo trồng, ngắn hạn và cho năng xuất cao.

Người ta đặt tên khác nhau cho các giống lúa để dễ nhận dạng. Về cơ bản có giống lúa nở xốp, giống lúa dẻo thơm và các giống lúa bản địa khác.

Đặc điểm hình thái của cây lúa nước:

Lúa là loài thân cỏ, sống lâu nhất là một năm. Lúa có thể cao từ 1m đến 1,8 m. Một vài giống lúa hoang dại đôi khi cao hơn. Tùy thời kì sinh trưởng, phát triển mà cây lúa đặc điểm hình dáng và màu sắc khác nhau. Về cơ bản, cây lúa nước có những đặc điểm sau:

Lúa thuộc loại rễ chùm. Những rễ non có màu trắng sữa. Rễ trưởng thành có màu vàng nâu và nâu đậm. Rễ đã già có màu đen. Bộ rễ cây lúa thường phát triển rất mạnh mẽ. Chúng thường lan rộng ra xung quanh hoặc đâm sâu xuống đến 20cm trong đất để hút nước và chất dinh dưỡng. Rễ là bộ phận sinh dưỡng quan trọng nhất của cây lúa.

Thân lúa gồm nhiều mắt và lóng như các loài cỏ khác. Chỉ vài lóng ở ngọn dài ra, số còn lại ngắn và dày đặc. Lúc nhỏ là thân lá. Khi lớn lên lóng mới dài ra. Lóng trên cũng dài nhất. Từ những mắt lóng sẽ đẻ ra nhánh lúa. Thân lúa được bao bọc bởi lá lúa.

Lá lúa điển hình gồm: bẹ lá, phiến lá, lá thìa và tai lá. Phiến lá mỏng, dẹp và có nhiều lông rậm. Lá được hình thành từ các mầm lá ở mắt thân. Mỗi cây lúa trưởng thành thường có từ 12 đến 18 lá. Lá làm nhiệm vụ quang hợp, tổng hợp chất dinh dưỡng nuôi cây. Khi còn phát triển lá có màu xanh lục. Khi chín lá lúa chuyển sang màu vàng.

Bông lúa là một bộ phận phát triển từ thân lúa. Bông lúa mang hoa lúa. Sau khi thụ phấn, hoa lúa kết thành hạt lúa tạo thành một chuỗi dài. Hoa lúa là loài hoa lưỡng tính có đầy đủ nhụy và nhị trên cùng một bông lúa. Lúa là cây tự thụ phấn. Đôi khi cũng xảy ra sự thụ phấn chéo ở cây lúa.

Sản phẩm thu được từ cây lúa là hạt lúa (thóc). Nhờ có mấu trấu giúp các hạt lúa kết dính trên bông lúa mà không bị rơi rụng. Sau khi xay xát lớp vở trấu ta thu được hạt gạo màu trắng. Hạt gạo là một loại lương thực quan trọng nhất của các nước châu Á và của hơn một nửa số người trên thế giới

Đặc điểm sinh trưởng, sinh sản và phát triển:

Người ta gieo trồng lúa bằng các hạt mầm. Dù là giống lúa ưa nước hay ưa cạn, trong vòng đời, cây lúa trải qua 3 giai đoạn phát triển:

Thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng: Tính từ lúc hạt thóc nảy mầm đến khi bắt đầu vào giai đoạn phân hoá hoa lúa. Ở giai đoạn này cây lúa mềm yếu, có màu xanh non. Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của cây lúa. Giai đoạn này lúa cần rất nhiều chất dinh dưỡng và dễ bị sâu bệnh hại phá. Để bảo vệ và tăng cường sự phát triển của cây, người ta chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh hết sức nghiêm ngặt.

Thời kỳ sinh trưởng sinh thực: Tính từ lúc bắt đầu phân hoá hoa lúa đến khi lúa trỗ bông và thụ tinh. Lúc này, bông lúa thoát khỏi lá đòng, nở hoa, tung phấn và thụ tinh. Giai đoạn này cây lúa cứng cáp, có màu xanh đậm, toàn thân tràn trê sức sống. Để hoa lúa phát triển tốt và kết hạt đều, chắc người ta thường bón một vài loại phân hỗ trợ và cũng tăng cường bảo vệ hoa lúa trước sâu hại phá.

Thời kỳ chín vàng: Sau khi thụ tinh, bông lúa bước vào kỳ ngậm hạt và chín. Kết thúc thời kỳ này là bông lúa chín hoàn toàn. Sau đó tiến hành thu hoạch hạt thóc. Giai đoạn này cây lúa bắt đầu khô dần, chuyển từ màu xanh sang màu vàng óng. Bông lúa oằn nặng trĩu chúi xuống đất. Đến khi bông lúa chín được 80%, người ta tiến hành thu hoạch lúa.

Thu hoạch và bảo quản các sản phẩm từ cây lúa:

Cây lúa phát triển khoảng từ 90 đến 120 ngày là thu hoạch. Người ta thường thu hoạch thóc và rơm rạ vào ngày nắng ấm. Hạt lúa sau khi thu hoạch được phơi sấy rút ẩm đạt 85-90% thì đem bảo quản cất giữ.

Để giữ cho lúa không bị hư hại, người ta thường bảo quản lúa ở trong kho khô ráo, thoáng gió. Hạt lúa trong điều kiện khô có thể cất giữ được nhiều năm mà không sợ bị hư hỏng. Ngoài ra, cần chống mối mọt và các loài gậm nhấm phá hoại trong khi bảo quản, cất giữ.

Khi nào cần sử dụng, người ta lấy hạt lúa xay xát thành gạo. Hạt gạo rất đẽ bị hư hỏng bởi thế thường được cất giữ trong thùng, ở nơi khô ráo, sạch sẽ.

Rơm rạ sau khi phơi khô cần đánh đống và che phủ cẩn thận, tùy vào mỗi việc mà sử dụng. Không cất giữ rơm rạ ở gần bếp vì rất dễ bắt lửa. Cũng không cất giữ nơi ẩm ướt vì rơm rạ rất đẽ hút ẩm, bị các loại nấm tấn công làm oai mục, phân hủy.

Vai trò, lợi ích của cây lúa trong đời sống con người:

Thật không thể nói hết được những lợi ích mà cây lúa đã mang lại cho con người. Có thể nói trong các loại cậy trồng, cây lúa là cây quan trọng nhất đối với con người. Tất cả các bộ phận của cây lúa đều cho con người những lợi ích tuyệt vời.

Sản phẩm chính của cây lúa là gạo, một nguồn lương thực chính của người Việt. Có thể nói, trong các loại lương thực chính của loài người, lúa gạo là loại dễ chế biến nhất. Không như lúa mạch, phải qua nhiều công đoạn mới có sản phẩm, từ gạo có thể trực tiếp nấu thành cơm một cách hết sức dễ dàng và tiện lợi. Từ bột gạo, ta cũng có thể chế biến thành các loại món ăn khác như bánh đa nem, phở, bánh đa, bánh chưng, bún, rượu. Ngoài ra còn bánh rán, bánh tét, bánh giò và hàng chục loại thực phẩm khác từ gạo.

Sản phẩm phụ của cây lúa gồm có: tấm, cám gạo, vỏ trấu, rơm rạ. Tấm dùng sản xuất tinh bột, rượu cồn, Axê tôn, phấn mịn và thuốc chữa bệnh. Cám dùng để sản xuất thức ăn tổng hợp. Từ tấm người ta sản xuất vitamin B1 để chữa bệnh tê phù, chế tạo sơn cao cấp hoặc làm nguyên liệu xà phòng. Người ta còn chế biến cám gạo thành các loại bột dưỡng trắng da sử dụng như một loại mỹ phẩm.

Vỏ trấu dùng sản xuất nấm men, làm thức ăn gia súc, vật liệu đóng lót hàng, vật liệu độn cho phân chuồng, hoặc làm chất đốt. Rơm rạ được sử dụng cho công nghệ sản suất giấy các tông xây dựng, đồ gia dụng ( thừng, chão, mũ, giầy dép), đan kết thành tấm lợp, làm thức ăn cho gia súc hoặc nguyên liệu sản xuất nấm… Ở Nhật Bản, thân rạ còn dùng để làm vật dụng trang trí rất gần gũi và trang nhã.

Bộ phận rễ lúa còn nằm trong đất sau khi thu hoạch cũng được cày bừa vùi lấp làm cho đất tơi xốp, được vi sinh vật phân giải thành nguồn dinh dưỡng bổ sung cho cây trồng vụ sau.

  • Kết bài:

Cho đến ngày nay, khi dân số thế giới không ngừng tăng cao, nhu cầu sử dụng lương thực tăng vọt thì cây lúa nước trở thành cây lương thực hành đầu giúp duy trì và giữ vững an ninh lương thực thế giới. Hằng năm, ngoài số lượng lúa gạo được sử dụng, người ta còn lưu trữ một lượng rất lớn để sử dụng cứu trợ khi cần thiết. Từ việc chỉ biết đến ở các nước Đông Nam châu Á, ngày nay cây lúa nước đã có mặt ở khắp nơi trên thế giới, trở thành một loại cây trồng hết sức gần gũi trong đời sống con người trên trái đất.


Bài văn tham khảo:

  • Mở bài:

Đất nước Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Vì thế từ bao đời nay cây lúa đã gắn liền với nổi nhọc nhằn, vất vả của người dan Việt Nam. Từ Bắc chí Nam, đâu đâu cũng xuất hiện những cánh đồng mênh mong bát ngát, trải dài tít tận chân mây như dấu hiệu cho mọi du khách nhận ra đất nước Việt Nam – đất nước nông nghiệp với sự gắn bó của con người và cây lúa xanh tươi.

  • Thân bài:

Không biết từ bao giờ có khái niệm cây lúa có trong từ điển Việt Nam. Từ một giống cây hoang dại, cây lúa đã được con người cải tạo và thuần hóa trở thành cây lương thực chính. Để có được những hạt thóc vàng căng mẩm là bao mồ hôi, công sức của người nông dân. Hạt thóc ngâm nước, ủ lên mầm, gieo xuống bùn trở thành cây mạ xanh non. Sau khi làm đất kí mạ non được bó lại như lên ba theo mẹ ra đồng và được cấm xuống bùn sâu. Qua bàn tay châm sóc của người dân cây lú đã phát triển xanh tươi thành ruộng lúa nối bờ mênh mong bác ngát.

Việt Nam có nhiều loại lúa: lúa nước, lúa nổi, lúa cạn, lúa nếp, lúa tẻ,….Có nhiều loại thơm ngon, rất nổi tiếng như lúa nàng hương, nàng thơm chợ đào,…. Nhiều giống lúa cho năng xuất cao, thích nghi ở nhiều loại đất khác nhau. Trừ những vùng quá phèn, quá mặn hoặc khô cằn. Ở đâu có nước ngọt là có trồng lúa. Tuy nhiên cây lúa thích hợp nhất vẫn là đất phù xa. ở nước ta, nghề trong lúa phát triển mạnh ở các lưu vực sông Hồng và sông Cửu Long.

Cây lúa nước là loại cây thân cỏ, tròn có nhiều giống và đốt. Giống thường rỗng, đặc ở đốt. Lá dài có bẹ ôm lấy thân. Gân lá song song. Những chiếc lá lúa giống như hình lưỡi. Dáng lá yểu điệu duyên dáng như trăm ngàn cánh tay bé xíu đùa giỡn với gió. Sóng lúa nhấp nhô giữa chiều hạ hay nắng sớm mùa xuân gợi bức tranh đồng quê thi vị, mượt mà. Đó là đề tài quen thơ của thơ ca nhạc họa.

Rễ lúa là rễ chùm, mọc nông trên đất. Hoa lúa mọc thành bông, không có cánh hoa. Khi nở nhị dài ra có chùm lông có tác dụng quét hạt phấn. Quả lua (thóc) khô có nhiều chất bột. Vỏ quả gồm vở trấu và vỏ cám. Vỏ cám dính sát vào hạt, còn vỏ trấu ở ngoài do máy tạo thành. Khi lúa tạo hạt, vỏ thóc xuất hiện trước bảo vệ phần tinh bột phát triển sau ở bên trong.

Vụ lúa Việt Nam phụ thuộc vào khí hậu, thời tiết nên thường có những  thời vụ khác nhau. Vụ lúa chiêm gieo từ tháng 10 âm lịch gặt tháng 1-2 năm sau. Vụ lúa xuân gieo từ tháng 2 âm lịch gặt tháng 4-5. Vụ lúa hè – thu gieo tháng 5-6 gặt tháng 8-9.

Hạt lúa, hạt gạo là nguồn lương thực chính của Việt Nam. Cơm gạo là thức ăn chính trong bữa ăn con người Việt Nam. Từ hạt gạo có thể chế tạo ra những đặc sảng như: Bánh tráng, bánh phồng, các loại bánh nổi tiếng của vùng. Nhưng đặc biệt nó có lẽ là bánh trưng, bánh giầy và cốm.

Lúa gạo là nguồn dự trữ đảm bảo an ninh lương thực của nước ta và thế giới.  Xuất khẩu gạo là nguồn kinh tế làm giàu cho đất nước. Thân lúa (rơm, rạ ) dùng để làm các chất đốt. Rơm khô là thức ăn cho gia súc và còn là nguyên liệu cho các mặc hàng thủ công mỹ nghệ.

  • Kết bài:

Sang thế kỉ XXI, Việt Nam đi vào xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng hình ảnh cây lúa và giá trị của nó vẫn là vị trí quan trọng nhất trong quá trình phát triển đất nước. Chẳng thế cây lúa còn được láy làm biểu tượng của các nước trong khối ASEAN như một báu vật cao quý.

Thuyết minh về cây tre

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang