“Trải qua một cuộc bể dâu / Những điều trong thấy mà đau đớn lòng” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Anh (chị) hiểu hai câu thơ trên thế nào? Qua Truyện Kiều, hãy làm sáng tỏ tấm lòng của Nguyễn Du.
- Mở bài:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Nỗi băn khoăn ấy của Nguyễn Du làm chúng ta không thể nào quên được cuộc đời và tấm lòng của ông. Cho đến muôn đời sau tên tuổi Nguyễn Du vẫn sống mãi với nhân loại. Ta quên sao được một con người có tấm lòng nhân hậu bao la, thông cảm sâu sắc với những kiếp người lầm than. Tác phẩm Đoạn Trường tân thanh vẫn chói ngời trong nền văn học nước nhà. Câu thơ:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trong thấy mà đau đớn lòng.
- Thân bài:
Dường như mang ý nghĩa và nội dung của nhan đề cũng như truyện thơ Nôm của Tố Như. Cuộc bể dâu và những điều trông thấy mà đau đớn lòng ấy có nghĩa gì? Vì sao Nguyễn Du lại viết như thế? Điều đó được tác giả thể hiện rất rõ qua tác phẩm cũng như cuộc đời mình.
Hình ảnh bể dâu trong câu thơ được nhà thơ lấy ý từ câu chữ Hán: Thương hải biến vị tang điền (Bể xanh hóa thành ruộng dâu). Đó chính là hình ảnh của sự thay đổi, sự biến chuyển nhanh chóng ngay trước mắt ta. Hình ảnh ruộng dâu xanh ngắt mới hiện ra trước mắt mà lại biến thành biển nước bao la. Phải chăng đây là ảo giác? Cuộc bể dâu mà Nguyễn Du trải qua đây không phải là ảo giác mà là sự thực rành rành trước mắt. Đó là hình ảnh của xã hội với sự thay đổi nhanh chóng không thể ngờ của nó mà Nguyễn Du đã chứng kiến. Chính vì thế, những điều trông thấy đã làm cho nhà thơ đau đớn lòng. Tâm can tác giả quặn thắt, đau xót vô cùng trước những hình ảnh diễn ra hằng ngày, hằng giờ. Nhà thờ chua xót và thông cảm với những kiếp người cơ cực trong xã hội bấy giờ.
Nguyễn Du đã trông thấy những gì? Đó là cả một bức tranh chân thực về xã hội loạn lạc thời phong kiến với cảnh ăn chơi sa đọa của vua quan và cảnh nghèo khổ của nhân dân.
Quả thật, đây chính là cuộc bể dâu mà chính nhà thơ đã trải qua. Xã hội xưa, vua là đấng tối cao đầy quyền lực giờ đây thay bằng thế lực của đồng tiền. Đồng tiền ngự trị lên trên tất cả. Trong Truyện Kiều, điều này hiện ra rất rõ khi gia đình Kiều mắc oan thì: “Có ba trăm lạng việc này mới xong”.
Có tiền là có thể giải quyết được tất cả, Kiều phải bán thân mình như một món hàng, mà kẻ mua:
“Đắn đo cân sắc, cân tài
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”.
Đau xót, nhục nhã không? Con người, nhân cách và phẩm được giá đánh giá bằng tiền bạc. Bốn trăm lượng để đổi lấy cả đời con gái sắc tài bậc nhất! Còn gì là đạo lí xã hội?
Nguyễn Du còn đau lòng trước cảnh sống của những con người đau khổ, bất hạnh. Đó là kiếp sống của nàng Kiều, của Vương Ông, Kim Trọng, Thúy Vân… mà Kiều là nhân vật trung tâm. Tất cả những nhân vật trong Truyện Kiều đều là người bất hạnh. Vương Ông là người cha bất hạnh, người đàn ông đau khổ bởi con phải bán mình vì ông.
Kim Trọng, chàng thư sinh không gặp may, không cưới được người mình yêu. Thúy Vân phải chấp nhận một cuộc hôn nhân được định sẵn. Họ sống hạnh phúc chăng, trong khi Kim Trọng luôn canh cánh nghĩ đến Kiều, khi Thúy Vân chỉ là vì nghĩa tình với chị mà sống cùng chàng Kim?
Tất cả những kiếp người ấy không làm Nguyễn Du đau đớn lòng bằng kiếp sống của Kiều. Một kiếp sống mà Nguyễn Công Trứ đã chỉ trích:
“Đã biết má hồng thời phận bạc
Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng”.
Nguyễn Công Trứ không biết đến tấm lòng vàng thực sự của Kiều, mặc dầu cô đã: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.
Kiều bị xô đẩy vào tay Tú Bà rồi Sở Khanh rồi Hoạn Thư, Hoạn Bà… Tất cả họ vùi dập đời Kiêu xuống đáy sâu của xã hội. Nàng đâu muốn bán mình, bán thân. Trong kiếp đoạn trường, nàng dường như đã chết:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”.
Không còn là nàng Kiều của thuở ê lệ nép vào dưới hoa. Hạnh phúc của Kiều mỏng manh, như chiếc lá vàng trong cơn gió lốc. Kiều sống với Từ Hải nhưng rồi chính tay Kiều đã đưa Từ Hải vào cái chết do mắc lừa quan tổng đốc Hồ Tôn Hiến.
Cuộc đời Kiều có lẽ là tổng hoa của bao kiếp người đau khổ mà Nguyễn Du chứng kiến, Nguyễn Du thông cảm và hiểu rõ nỗi đau của những người phụ nữ như Kiều và ông viết với cả tâm huyết mình. Chính tác giả Truyện Kiều đã bật kêu lên: “Đau đớn thay phận đàn bà…”
Và mỗi khi Kiều bị đánh đập, trái tim Tố Như lại rỏ máu thành thơ:
“Thịt da ai cũng là người
Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau”.
Vì sao nhà thơ lại có một tấm lòng nhân đạo bao la như thế để đau đớn lòng trước một cuộc bể dâu khốc hại? Do sự gần gũi của nhà thơ với nhân dân, với nỗi cơ cực lầm than của họ. Nhà Lê mục nát, sụp đổ, Nguyễn Du lưu lạc mười năm trời, đói khát như những người cùng khốn. Chính vì thế, ông cảm thông với nỗi đau của con người, nhất là phận đàn bà, những thân phận bị xã hội vùi dập, chà đạp tệ hại nhất. Nguyễn Du nhận ra sự thối nát, mặt trái của thế lực cầm quyền. Ông chứng kiến tận mắt bức tranh đen xám tàn khốc của triều đình và cả xã hội phong kiến, ông căm ghét xã hội, ông thương kiếp con người. Hiện thực và tấm lòng của nhà thơ được thể hiện rõ khi ông viết:
“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Nguyễn Du đã có con mắt và con tim rất tiến bộ. Ông đã nhìn nhận thấu suốt mâu thuẫn xã hội, mới có thể thốt lên những lời đau xót đến như thế.
Ngày nay, xã hội đã thay đổi nhưng tình cảm của Nguyễn Du vẫn đáng trân trọng phát huy. Vì có đau đớn lòng bởi những điều trông thấy thì mới xây dựng xã hội công bằng, văn minh, tiến bộ hơn.
Người xưa nhận xét quả không sai: Nguyễn Du viết Truyện Kiều mà như máu chảy qua ngọn bút, nước mắt thấm cả trang giấy… Và giờ đây vẫn còn thấm cả trong lòng người đọc. Ông thật xứng đáng với danh hiệu đại thi hào của Việt Nam.