»» Nội dung bài viết:
Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân.
I. Ngôn ngữ – tài sản chung của xã hội:
– Ngôn ngữ là tài sản chung, là phương tiện giao tiếp chung của cả cộng đồng xã hội. Tính chung trong ngôn ngữ được biểu hiện qua những phương tiện sau.
1. Các yếu tố chung của ngôn ngữ
– Các âm và các thanh (nguyên âm, phụ âm, thanh điệu,…)
– Các tiếng (âm tiết)
– Các từ
– Các ngữ cố định (thành ngữ và quán ngữ)
2. Các quy tắc và phương thức chung:
– Quy tắc cấu tạo từ, cấu tạo ngữ (cum từ), cấu tạo câu, đoạn, đoạn văn,
– Quy tắc các phương thức chuyển nghĩa, chuyển loại của từ, phương thức sử dụng trực tiếp, hoặc gián tiếp các câu…
II. Lời nói – sản phẩm riêng của cá nhân:
1/ Khái niệm:
2/ Biểu hiện.
+ Giọng nói cá nhân.
+ Vốn từ ngữ cá nhân.
+ Sự chuyển đổi, sáng tạo khi sử dụng từ ngữ chung quen thuộc.
+ Việc sáng tạo từ mới.
+ Việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo quy tắc, phương thức chung.
→ Biểu hiện cụ thể nhất của lời nói cá nhân là phong cách ngôn ngữ của nhà văn.
III. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân.
– Ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân có quan hệ hai chiều.
– Ngôn ngữ chung là cơ sở để sản sinh và lĩnh hội lời nói cá nhân.
– Lời nói cá nhân vừa là biểu hiện của ngôn ngữ chung, vừ có những nét riêng. Hơn nữa cá nhân có thể sáng tạo, góp phần làm biến đổi và phát triển ngôn ngữ chung.
III. Luyện tập.
Bài 1/tr13:
“Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”
Từ “ Thôi” in đậm được dùng với nghĩa: sự mất mát, sự đau đớn. “Thôi” nghĩa chung là chấm dứt, kết thúc một hoạt động nào đó. Ở đây, “thôi” có nghĩa là chấm dứt, kết thúc cuộc đời, cuộc sống. “Thôi” là hư từ được nhà thơ dùng trong câu thơ nhằm diễn đạt nỗi đau của mình khi nghe tin bạn mất, đồng thời cũng là cách nói giảm để nhẹ đi nỗi mất mát quá lớn không gì bù đắp nổi.
Bài 2/tr13:
“xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”
Hai câu thơ dùng các từ ngữ chung quen thuộc, nhưng sự phối hợp của chúng có sự sáng tạo:
– Các cụm danh từ (rêu từng đám, đá mấy hòn) đều sắp xếp danh từ trung tâm (rêu, đá trước tổ hợp định từ + danh từ chỉ loại (từng đám, mấy hòn).
– Các câu đều sắp xếp bộ phận vị ngữ (động từ + thành phần phụ: xiên ngang – mặt đất, đâm toạc – chân mây) đi trước bộ phận chủ ngữ (rêu từng đám, đá mấy hòn).
→ Thiên nhiên trong hai câu thơ như cũng mang theo nỗi niềm phẫn uất của con người. Nhà thơ sử dụng biện pháp đảo ngữ để làm nội tâm trạng phẫn uất của thiên nhiên mà cũng là sự phẫn uất của nhà thơ. Các động từ mạnh như xiên, đâm kết hợp với các bổ ngữ như ngang, toạc thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh của thi sĩ
Bài 1/tr 35:
“Nách” chỉ góc tường. Được dùng với nghĩa chuyển – theo phương thức ẩn dụ, chỉ vị trí giao nhau giữa hai bức tường, tạo nên một góc.
Bài 2/tr36:
Từ “xuân” trong ngôn ngữ chung đã được tác giả dùng với nghĩa riêng:
Trong câu thơ của Hồ Xuân Hương, “xuân” vừa chỉ sức sống và nhu cầu tình cảm của tuổi trẻ.
Trong câu thơ của Nguyễn Du, “xuân” trong “cành xuân” để chỉ vẻ đẹp của người con gái trẻ tuổi.
Trong câu thơ của Nguyễn Khuyến “xuân” trong “bầu xuân” chỉ chất men say nồng của rượu ngon, đồng thời cũng có nghĩa bóng chỉ sức sống dạt dào của cuộc sống, tình cảm thắm thiết của bạn bè.
Trong câu thơ của Hồ Chí Minh, “xuân” trong “mùa xuân” có nghĩa gốc chỉ mùa đầu tiên trong năm, từ “xuân” trong “làm cho đất nước càng ngày cành xuân” nghĩa chuyển chỉ sức sống mới, đẹp.
Bài tập 3/tr36:
Từ “mặt trời” trong ngôn ngữ chung đã được tác giả dùng với nghĩa riêng.
Trong câu thơ của Huy Cận, “mặt trời” dùng với nghĩa gố (chỉ một thiên thể trong vũ trụ), nhưng dung theo phép nhân hóa nên có thể “xuống biển” (hoạt động như con người)
Trong câu thơ của Tố Hữu, từ “mặt trời” chỉ một lí tưởng cách mạng.
Trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điền từ “mặt trời” thứ nhất dùng với nghĩa gốc, “mặt trời” thứ 2 dùng với nghĩa ẩn dụ, chỉ đứa con của người mẹ: đối với người mẹ, đứa con là niềm hạnh phúc, niềm tin mang lại ánh sáng cho cuộc đời người mẹ.
Bài tập 4/tr36:
Câu a:
– Các từ “mọn mằn”, “giỏi giắn”, “nội soi” mới được tạo ra trong thời gian gần đây.
– Từ “mọn mằn” được tạo ra dựa vào:
+ Tiếng “mọn” với nghĩa nhỏ đến mức không đáng kể.
– Những quy tắc cấu tạo chung:
+ Quy tắc tạo từ láy hai tiếng lặp lại phụ âm đầu (âm m): Trong 2 tiếng, tiếng gốc (“mọn”) đặt trước, tiếng láy đặt sau. Tiếng láy lập lại âm đầu, nhưng đổi vẫn thành vần “ăn”, “mọn mằn” nghĩa là nhỏ nhặt, tầm thường, không đáng kể.
+ Từ “giỏi giắn” được tạo nên từ tiếng “giỏi” có sẵn và theo quy tắc như từ “mọn mằn” ở trên: láy phụ âm đầu, tiếng thứ 2 mang vần “ăn”. “Giỏi giắn” có nghĩa là rất giỏi (có sắc thái thiện cảm, được mến mộ)
+ Từ “nội soi” được tạo ra từ 2 tiếng có sẵn (nội và soi) đồng thời dựa vào phương thức cấu tạo từ ghép chính phụ có tiếng chính chỉ hoạt động (đi sau) và tiếng phụ bổ sung ý nghĩa (đi trước).
Câu b:
Có thể khẳng định ngôn ngữ là tài sản chung của xã hội, lời nói là sản phẩm của từng cá nhân. Có thể nhận thấy mối quan hệ này qua bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh.:
– Sức gợi, sự liên tưởng của từ ngữ đã khẳng định được sức sáng tạo của Bác, đặc biệt là từ lồng.
+ Từ lồng gợi nhớ đến Chinh phụ ngâm: Hoa dái nguyệt, nguyệt in một tấm / Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông / Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng / Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xót đau. Từ lồng cũng gợi nhớ đến Truyện Kiều: Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.
– Cấu trúc so sánh mới lạ ở hai câu đầu (theo cấu trúc so sánh thông thường thì câu thơ đầu là Tiếng hát như như tiếng suối).
– Điệp ngữ cuối câu 3 và đầu câu 4 (chưa ngủ) như chờ một kết thúc bất ngờ, độc đáo: vì lo nỗi nước nhà.