tu-ngon-ngu-chung-den-loi-noi-ca-nhan-13568-2

Soạn bài: Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (Ngữ văn 11).

Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân.

I. Ngôn ngữ – tài sản chung của xã hội:

– Ngôn ngữ là tài sản chung, là phương tiện giao tiếp chung của cả cộng đồng xã hội. Tính chung trong ngôn ngữ được biểu hiện qua những phương tiện sau.

1. Các yếu tố chung của ngôn ngữ

– Các âm và các thanh (nguyên âm, phụ âm, thanh điệu,…)
– Các tiếng (âm tiết)
– Các từ
– Các ngữ cố định (thành ngữ và quán ngữ)

2. Các quy tắc và phương thức chung:

– Quy tắc cấu tạo từ, cấu tạo ngữ (cum từ), cấu tạo câu, đoạn, đoạn văn,

– Quy tắc các phương thức chuyển nghĩa, chuyển loại của từ, phương thức sử dụng trực tiếp, hoặc gián tiếp các câu…

II. Lời nói – sản phẩm riêng của cá nhân:

1/ Khái niệm:

2/ Biểu hiện.

+ Giọng nói cá nhân.

+ Vốn từ ngữ cá nhân.

+  Sự  chuyển  đổi,  sáng  tạo  khi  sử  dụng từ ngữ chung quen thuộc.

+ Việc sáng tạo từ mới.

+  Việc  vận  dụng  linh  hoạt,  sáng  tạo quy tắc, phương thức chung.

→  Biểu  hiện  cụ  thể  nhất  của  lời  nói  cá  nhân  là  phong  cách  ngôn  ngữ  của nhà văn.

III. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân.

– Ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân có quan hệ hai chiều.

– Ngôn ngữ chung là cơ sở để sản sinh và lĩnh hội lời nói cá nhân.

– Lời nói cá nhân vừa là biểu hiện của ngôn ngữ chung, vừ có những nét riêng. Hơn nữa cá nhân có thể sáng tạo, góp phần làm biến đổi và phát triển ngôn ngữ chung.

III. Luyện tập.

Bài 1/tr13:

“Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”

Từ  “ Thôi”  in  đậm  được  dùng  với  nghĩa:  sự  mất  mát,  sự  đau  đớn. “Thôi” nghĩa chung là chấm dứt, kết thúc một hoạt động nào đó. Ở đây, “thôi” có nghĩa là chấm dứt, kết thúc cuộc đời, cuộc sống. “Thôi”  là  hư  từ  được  nhà thơ  dùng  trong  câu  thơ  nhằm  diễn  đạt  nỗi  đau  của  mình  khi  nghe  tin  bạn  mất,  đồng  thời  cũng  là  cách  nói  giảm  để  nhẹ  đi  nỗi  mất  mát  quá  lớn  không  gì  bù  đắp  nổi.

Bài 2/tr13:

“xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”

Hai câu thơ dùng các từ ngữ chung quen thuộc, nhưng sự phối hợp của chúng có sự sáng tạo:

– Các cụm danh từ (rêu từng đám, đá mấy hòn) đều sắp xếp danh từ trung tâm (rêu, đá trước tổ hợp định từ + danh từ chỉ loại (từng đám, mấy hòn).

– Các câu đều sắp xếp bộ phận vị ngữ (động từ + thành phần phụ: xiên ngang – mặt đất, đâm toạc – chân mây) đi trước bộ phận chủ ngữ (rêu từng đám, đá mấy hòn).

→ Thiên  nhiên  trong  hai  câu  thơ  như  cũng  mang  theo  nỗi  niềm  phẫn  uất  của  con  người.  Nhà  thơ  sử  dụng  biện  pháp  đảo  ngữ  để  làm  nội  tâm  trạng  phẫn  uất  của  thiên  nhiên  mà  cũng  là  sự  phẫn  uất  của  nhà  thơ.  Các  động  từ  mạnh  như  xiên,  đâm  kết hợp  với  các  bổ  ngữ  như  ngang,  toạc  thể  hiện  sự  bướng bỉnh, ngang ngạnh của thi sĩ

Bài 1/tr 35:

“Nách” chỉ góc tường. Được dùng với nghĩa chuyển – theo phương thức ẩn dụ, chỉ vị trí giao nhau giữa hai bức tường, tạo nên một góc.

Bài 2/tr36:

Từ “xuân” trong ngôn ngữ chung đã được tác giả dùng với nghĩa riêng:

Trong câu thơ của Hồ Xuân Hương, “xuân” vừa chỉ sức sống và nhu cầu tình cảm của tuổi trẻ.

Trong câu thơ của Nguyễn Du, “xuân”  trong “cành xuân” để chỉ vẻ đẹp của người con gái trẻ tuổi.

Trong câu thơ của Nguyễn Khuyến “xuân” trong “bầu xuân” chỉ chất men say nồng của rượu  ngon, đồng thời cũng có nghĩa bóng chỉ sức sống dạt dào của cuộc sống, tình cảm thắm thiết của bạn bè.

Trong câu thơ của Hồ Chí Minh, “xuân” trong “mùa xuân” có nghĩa gốc chỉ mùa đầu tiên trong năm, từ “xuân” trong “làm cho đất nước càng ngày cành xuân” nghĩa chuyển chỉ sức sống mới, đẹp.

Bài tập 3/tr36:

Từ “mặt trời” trong ngôn ngữ chung đã được tác giả dùng với nghĩa riêng.

Trong câu thơ của Huy Cận, “mặt trời” dùng với nghĩa gố (chỉ một thiên thể trong vũ trụ), nhưng dung theo phép nhân hóa nên có thể “xuống biển” (hoạt động như con người)

Trong câu thơ của Tố Hữu, từ “mặt trời” chỉ một lí tưởng cách mạng.

Trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điền từ “mặt trời” thứ nhất dùng với nghĩa gốc, “mặt trời” thứ 2 dùng với nghĩa ẩn dụ, chỉ đứa con của người mẹ: đối với người mẹ, đứa con là niềm hạnh phúc, niềm tin mang lại ánh sáng cho cuộc đời người mẹ.

Bài tập 4/tr36:

Câu a:

– Các từ “mọn mằn”, “giỏi giắn”, “nội soi” mới được tạo ra trong thời gian gần đây.

– Từ “mọn mằn” được tạo ra dựa vào:

+ Tiếng “mọn” với nghĩa nhỏ đến mức không đáng kể.

– Những quy tắc cấu tạo chung:

+ Quy tắc tạo từ láy hai tiếng lặp lại phụ âm đầu (âm m): Trong 2 tiếng, tiếng gốc (“mọn”) đặt trước, tiếng láy đặt sau. Tiếng láy lập lại âm đầu, nhưng đổi vẫn thành vần “ăn”, “mọn mằn” nghĩa là nhỏ nhặt, tầm thường, không đáng kể.

+ Từ “giỏi giắn” được tạo nên từ tiếng “giỏi” có sẵn và theo quy tắc như từ “mọn mằn” ở trên: láy phụ âm đầu, tiếng thứ 2 mang vần “ăn”. “Giỏi giắn” có nghĩa là rất giỏi (có sắc thái thiện cảm, được mến mộ)

+ Từ “nội soi” được tạo ra từ 2 tiếng có sẵn (nội và soi) đồng thời dựa vào phương thức cấu tạo từ ghép chính phụ có tiếng chính chỉ hoạt động (đi sau) và tiếng phụ bổ sung ý nghĩa (đi trước).

Câu b:

Có  thể  khẳng  định  ngôn  ngữ  là  tài  sản  chung  của  xã  hội,  lời  nói  là  sản  phẩm  của  từng  cá  nhân.  Có  thể  nhận  thấy  mối  quan  hệ  này  qua  bài  thơ  Cảnh  khuya của Hồ Chí Minh.:

– Sức  gợi,  sự  liên  tưởng  của  từ  ngữ  đã  khẳng  định  được  sức  sáng  tạo  của  Bác,  đặc  biệt  là  từ  lồng.

+ Từ  lồng  gợi  nhớ  đến  Chinh  phụ  ngâm:  Hoa  dái  nguyệt,  nguyệt  in  một  tấm  /  Nguyệt  lồng  hoa,  hoa  thắm  từng  bông  /  Nguyệt  hoa,  hoa  nguyệt  trùng  trùng  /  Trước  hoa  dưới  nguyệt  trong  lòng  xót  đau.  Từ  lồng  cũng  gợi  nhớ  đến  Truyện  Kiều:  Vàng  gieo  ngấn  nước,  cây  lồng  bóng  sân.

– Cấu  trúc  so  sánh  mới  lạ  ở  hai  câu  đầu  (theo  cấu  trúc  so  sánh  thông  thường  thì  câu  thơ  đầu  là  Tiếng hát như như tiếng suối).

– Điệp  ngữ  cuối  câu  3  và  đầu  câu 4  (chưa  ngủ)  như  chờ  một  kết thúc  bất  ngờ,  độc  đáo:  vì  lo  nỗi  nước nhà.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang