Vai trò của chất liệu dân gian trong đoạn trích Đất nước (trích trường ca “Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm).
- Mở bài:
– Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu trong nền thơ ca kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam.
– Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
– Đoạn thơ trên thuộc chương V – chương “Đất nước” của bàn trường ca; thể hiện những nhận thức sâu sắc về đất nước, trong đó nổi bật là hình ảnh đất nước hiện lên trong quan hệ gắn bó với mỗi con người.
– Một trong những thành công đặc sắc của đoạn thơ “Đất nước” đó là nhà thơ vận dụng chất liệu dân gian vốn đã rất quen thuộc đối với nhân dân, vừa mới lạ để xây dựng hình tượng đất nước vừa lớn lao, kì vĩ, vừa bình dị, thân thuộc, tồn ẩn trong mõi con người.
- Thân bài:
1. Nhà thơ đã vận dụng thành công chất liệu văn hóa dân gian.
– Chất liệu văn hóa dân gian vừa quen thuộc (gần gũi với cuộc sống của mỗi con người Việt Nam) vừa mới lạ (với những sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn).
– Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng, phong phú, tất cả đều gần gũi, quen thuộc với mỗi con người Việt Nam.
+ Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt, vật dụng quen thuộc (miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần, sàng, hòn than, con cúi,…).
+ Có ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích.
– Cách vận dụng độc đáo, sáng tạo:
+ Vận dụng ca dao, tục ngữ nhưng dẫn dắt khéo léo, khi lấy nguyên vẹn toàn bài khi chỉ mượn ý mượn tứ để khẳng định, tôn vinh những nét đẹp trong sinh hoạt và tâm hồn con người Việt Nam. Đó là sự chăm chỉ chịu thương, chịu khó; là tấm lòng thủy chung son sắt trong tình yêu; là sự duyên dáng, ý nhị trong từng lời ăn tiếng nói…
Dẫn chứng:
– “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” lấy ý từ bài ca dao “Tay nâng chén muối đĩa gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” hay “Muối ba năm muối hãy còn mặn, gừng chín tháng gừng hãy còn cay/ Đôi ta tình nặng nghĩa dày/ Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
– “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” lấy ý từ bài ca dao “Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất…”
– Liệt kê hàng loạt những câu chuyện từ xa xưa trong truyền thuyết, cổ tích dân tộc để làm nổi bật vẻ đẹp trù phú của đất nước, những truyền thống quý báu của nhân dân ta đồng thời khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong việc “làm ra Đất Nước”.
+ Truyền thống đoàn kết, tinh thần cảnh giác cao độ trước kẻ thù “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”, tinh thần uống nước nhớ nguồn “Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
Hoặc tô đậm sự trù phú tươi đẹp của quê hương:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
2. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, mơ mộng. Hơn nữa, có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật ở đoạn trích này.
3. Bằng việc sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian, bên cạnh việc lí giải, định nghĩa Đất Nước ở nhiều bình diện: không gian, thời gian lịch sử, truyền thống văn hóa nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn làm nổi bật một tư tưởng mới mẻ: “Đất Nước của nhân dân/ Đất Nước của ca dao thần thoại”.
- Kết bài:
– Nhận định được nêu ra trong bài là một cơ sở quan trọng để khám phá, tìm hiểu tác phẩm nói chung và đoạn thơ nói riêng. Quan đoan trích, ta thấy được tư tưởng sâu sắc, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ kết tinh tư tưởng yêu nước, niềm tự hào dân tộc của nhà thơ, cũng là đóng góp lớn của ông đối với thơ ca dân tộc. Đoạn thơ khẳng định tài năng sáng tạo, sự am hiểu tường tận về văn hóa dân gian của tác giả.
– Thành công đòi hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm một vốn sống, vồn văn hóa phong phú. Một sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về Đất nước, về Nhân Dân. Đồng thời đời hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có một tài năng, một bản lĩnh của người cầm bút.
– Qua đoạn thơ, để lại bài học sâu sắc về cuộc sống: biết trân trọng những giá trị văn hóa dân gian; bài học về sáng tạo nghệ thuật: đem đến những sáng tạo, mới mẻ từ những giá trị gần gũi, quen thuộc.
Bài văn tham khảo:
Vẻ đẹp của chất liệu dân gian trong đoạn trích “Đất nước” (trích trường ca “Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm).
- Mở bài:
Đoạn thơ Đất nước kết tinh cái nhìn mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu: lịch sử, văn hóa, địa lý… quy tụ xung quanh một tư tưởng trung tâm: “Đất Nước của Nhân dân”. Viết về “đất nước”. Để thể hiện thành công tư tưởng ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rất nhiều chất liệu văn hóa dân gian. Loại chất liệu đặc biệt này đã đem lại hiệu quả thẩm mỹ đặc biệt, tạo ra sức cuốn hút độc đáo cho đoạn thơ.
- Thân bài:
1. Chất liệu văn hóa dân gian được thể hiện qua những câu ca dao, dân ca, truyền thuyết… Tất cả đã bao trùm lên đoạn thơ một bầu khí quyển độc đáo và đầy sức quyến rũ.
Điểm đầu tiên phải kể đến trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là vận dụng ca dao, tục ngữ một cách nhuần nhị.
Mở đầu đoạn trích, tác giả đi lí giải về cội nguồn sinh ra đất nước.đất nước với Nguyễn Khoa Điềm không được tạo nên bởi những gì trừu tượng, xa xôi mà được hình thành, tạo nên bởi những gì gần gũi nhất. Đó là tình nghĩa thuỷ chung son sắt của cha mẹ :
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Câu thơ được lấy ý từ câu ca dao:
Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Ý thơ nhằm ca ngợi lối sống giàu tình nghĩa và tấm lòng thủy chung, son sắt của người Việt Nam.
Đất nước ta gắn với nền văn minh lúa nước từ xa xưa. Bởi vậy, giải thích nguồn cội của đất nước nhà thơ không thể không nhắc đến hình ảnh cây lúa, hạt gạo:
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng”
Hình ảnh thơ gợi cuộc sống lam lũ, tảo tần. Để làm ra hạt gạo trắng thơm, người nông dân phải đổ biết bao mồ hôi công sức một nắng hai sương. Phải bán mặt cho đất, bán lưng cho giời, phải trải qua nhiều công đoạn xay, giã, dần, sàng mới có được thành quả. Câu thơ khiến ta liên tưởng đến bài ca dao:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.
Khi định nghĩa về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa người đọc đến với hình ảnh của một đất nước không hề xa lạ. Nó chính là nơi nảy nở của tình yêu lứa đôi khi mỗi người đến tuổi trưởng thành:
“Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Ý thơ được lấy từ bài ca dao quen thuộc nói:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai…”
Tình yêu đi liền với nó là nỗi nhớ. Nỗi nhớ chính là thước đo của tình yêu . Khi yêu nhau, gần nhau người ta cũng nhớ, xa nhau thì càng thấy nhớ thương da diết, cồn cào, cháy bỏng. Hình ảnh thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo bài ca dao Khăn thương nhớ ai.. để đem đến cho câu thơ một cảm nhận mới mẻ về nỗi nhớ trong tình yêu.
Đất Nước trong định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ gắn với không gian nhỏ bé gần gũi là nơi anh đến trường, là bến nước nơi em tắm mà hình ảnh đất nước còn gắn với không gian rộng lớn mênh mông của rừng vàng, biển bạc:
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi””.
Câu thơ được nhà thơ lấy cảm hứng trọn vẹn từ câu hò Bình – Trị – Thiên quen thuộc:
“Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc
Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi”.
Nguyễn Khoa Điềm được sinh ra và trưởng thành trên vùng đất giàu giá trị văn hóa, thơ Nguyễn Khoa Điềm thấm đẫm hồn Huế, chính vì thấm nhuần nền văn hóa dân gian nơi chôn nhau cắt rốn nên khi định nghĩa về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nghĩ ngay đến câu ca dao bình dị của quê hương, xứ sở mình. Thật tự hào thay, quê hương mình lúc nào cũng trù phú, giàu đẹp “rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu” (Hồ Chí Minh)
Lịch sử nước ta là lịch sử của các vua hùng dựng và giữ nước. Từ xưa đến nay, mỗi người dân đất Việt luôn ý thức sâu sắc về nguồn cội của mình. Vì vậy, dù có đi đâu về đâu cũng không quên nhớ ngày giỗ tổ Hùng Vương:
“Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Cội nguồn dân tộc, gốc gác tổ tiên là điều ta không bao giờ có thể quên. Vì vậy, Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở mỗi chúng ta về truyền thống uống nước nhớ nguồn từ bao đời nay của dân mình. Ca dao xưa cũng từng nhắc nhở ta:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”
Từ nền văn học dân gian, nhà thơ đã khám phá ra biết bao vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của người Việt ta từ xa xưa. Đó là những con người yêu say đắm, thủy chung:
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”.
Ý thơ được lấy từ câu ca dao quen thuộc:
“Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”/
Từ ca dao, nhà thơ cũng khám phá ra vẻ đẹp của những con người biết quý trọng lối sống tình nghĩa, biết nâng niu, trân trọng những gì có được từ sự khó nhọc, gian nan:
“Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”
Ca dao xưa cũng nói về những con người như thế:
“Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”
Qua ca dao, Nguyễn Khoa Điềm cũng phát hiện ra phẩm chất bền bỉ kiên cường , quyết liệt trong chiến đấu, trong công cuộc dựng và giữ nước của cha ông ta:
“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Bền bỉ, kiên cường , quyết liệt là những phẩm chất cần có của con người trong mọi thời kì, nhất là trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Câu thơ của thi nhân được lấy ý từ câu ca dao:
“Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què”
Như vậy có thể thấy, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng một cách sáng tạo ca dao, tục ngữ tạo nên những vần thơ thơ mượt mà đằm thắm, trữ tình, thiết tha .
2. Không gian nghệ thuật gần gũi, bắt nguồn từ văn hóa cổ truyền ngàn đời, gắn bó như máu thịt, trường tồn từ một cõi vô thức nào đó trong tâm tưởng người đọc:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa… ” mẹ thường hay kể”.
Nguyễn Khoa Điềm không dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, cũng không dùng cách nói trang trọng để giải thích về nguồn cội của đất nước, mà tác giả đã chọn một cách nói dung dị nhưng thấm thía. Đất nước có từ “ngày xửa ngày xưa”, tức là đất nước đã có từ lâu lắm rồi. Từ trong những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết mẹ thường hay kể cho ta bên cánh võng ầu ơ. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” cũng gợi ta liên tưởng đến những câu mở đầu thường thấy trong các câu truyện cổ dân gian mang âm hưởng của những câu chuyện cổ tích, đưa ta về một thuở rất xa xưa.
Đất nước ta lớn lên cùng truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc Câu thơ “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” gợi ta nghĩ đến truyền thuyết Thánh Gióng . Hình ảnh cậu bé vươn vai thành tráng sĩ nhổ tre đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi đã thể hiện tinh thần yêu nước kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc hơn bốn ngàn năm lịch sử của cha ông ta.
Đất nước còn là nơi phát sinh và phát triển của cộng đồng người Việt qua bao thế hệ. Từ thuở sơ khai, với truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên”, “Lạc Long Quân và Âu Cơ” đã “ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”:
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Nguyễn Khoa Điềm đã thật sáng tạo trong ý thơ. Chỉ bằng một vài hình ảnh đã gợi ra những truyền thuyết xa xưa về nguồn cội dân mình. Dân tộc ta là con rồng, cháu tiên cùng được sinh ra từ bọc trăm trứng nở ra trăm con của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ.
Đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm thật gần gũi, quen thuộc biết bao. Nhà thơ vận dụng rộng rãi nhiều chất liệu văn học dân gian từ các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết của nhân dân ta để cảm nhận về đất nước. Cách nói này vừa đậm đà tính dân tộc, vừa giàu tính trí tuệ mới mẻ.
Điểm thứ ba trong việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hoá, văn học dân gian trong đoạn trích Đất Nước là sử dụng những yếu tố của phong tục tập quán người Việt Nam để cảm nhận về đất nước.
Đất nước với Nguyễn Khoa Điềm không chỉ gắn với những câu tục ngữ, ca dao, những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết mà nó còn gắn với bề dày truyền thống văn hóa với những phong tục tập quán có từ ngàn đời xưa của cha ông ta:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Hình ảnh miếng trầu gợi liên tưởng tới sự tíchtrầu cau, đến phong tục ăn trầu của người Việt. Nét đẹp văn hóa ấy cho đến ngày nay vẫn được bảo tồn, lưu giữ. Bởi từ xưa đối với người Việt ta miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu nên dâu nhà người. Đất nước thật lớn lao kì vĩ lại được bắt đầu từ những điều nhỏ bé bình dị biết bao!
Không chỉ có tục lệ ăn trầu, mà tục bới tóc sau đầu cũng là một nét đẹp văn hóa được nhà thơ gợi nhắc qua câu thơ:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm gợi ta nhớ đến lời ca dao:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài bối rối lòng anh.”
Bới tóc sau đầu là là một thói quen đã trở thành tập tục từ ngàn đời xưa của dân ta. Hình ảnh người mẹ có bới tóc sau đầu gợi vẻ đẹp hồn hậu, giản dị, dịu dàng, nữ tính. Đây là nét đẹp văn hóa có sức sống lâu bền. Dù trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc nhưng nét đẹp ấy vẫn được giữ gìn.
Theo tiến trình phát triển của đất nước, dân tộc ta tiến lên nền văn minh lúa nước gắn với nền sản xuất nông nghiệp. Người Việt ta từ xưa đã biết xây dựng nhà cửa để che mưa, trú nắng:
“Cái kèo, cái cột thành tên”
Cái kèo, cái cột là những vật dụng quen thuộc khi dựng nhà của cha ông ta. Những vật dụng ấy đã được lấy để đặt tên cho con cái. Những cách đặt tên không cầu kì, hoa mĩ thể hiện được nếp sống hồn nhiên, giản dị của người xưa.
Hình ảnh miếng trầu giản dị hiện lên trên cái miệng móm mém nhai trầu của bà, mái tóc bới sau đầu của mẹ, cách gọi tên “cái kèo, cái cột” dân dã. Những điều tưởng chừng như bình thường ấy đã trở thành nếp sống, nét đẹp văn hóa, thuần phong mĩ tục đậm đà bản sắc Việt Nam.
Qua việc vận dụng đậm đặc, sáng tạo chất liệu văn hoá văn học dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã làm nổi bật trước mắt người đọc hình ảnh của một đất nước vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hoá lịch sử, vừa bình dị thân quen với cuộc sống quanh ta. Chất dân gian thấm sâu vào tư duy nghệ thuật, tư tưởng cảm xúc của nhà thơ trong Đất Nước tạo nên một dấu ấn độc đáo khó phai trong lòng mỗi bạn đọc yêu văn!
3. Nhịp điệu ngôn từ, lời thơ nhẹ nhàng, gợi những cảm xúc hồn nhiên mà sâu sắc, mãnh liệt.
– Hình thức trữ tình trò chuyện một lứa đôi – vốn để trao gửi những tình cảm riêng tư, cá nhân, gửi gắm những tình cảm chung, lớn lao, thiêng liêng: tình yêu đất nước, tình cảm với nhân dân. Hình thức nghệ thuật ấy có tác dụng tạo giọng thơ trữ tình, thủ thỉ, thiết tha, đằm thắm, mang dấu ấn thi pháp thơ trữ tình chính trị (liên hệ với Việt Bắc – Tố Hữu), làm cho những lí giải mang tầm triết học về đất nước trở nên dung dị, dễ hiểu, thấm thía.
– Cách diễn đạt đầy nghịch lí biểu hiện những khám phá riêng về đất nước: Quá khứ – đất nước không bao giờ mất đi mà luôn có mặt trong thực tại, trong những cái tưởng như nhỏ nhoi bình dị nhất. Những cái nhỏ bé, tầm thường là nền tảng hình thành những điều lớn lao, thiêng liêng.
– Hệ thống hình ảnh gần gũi thân thuộc với hầu hết người Việt Nam. Nó gợi thương nhớ từ muôn thủa ca dao cổ tích, mà ca dao cổ tích là lớp trầm tích văn hóa sâu kín nhất của người Việt Đất Nước có từ xa xưa, được cảm nhận ở chiều sâu văn hóa lịch sử thiêng liêng, bất tử.
– Thi liệu: sử dụng thi liệu văn hóa, văn học dân gian sáng tạo: không nhắc lại nguyên vẹn mà chỉ lấy ý, coa vai trò khơi gợi những liên tưởng phong phú, người đọc tự do đi về trong các chiều văn hóa lịch sử để cảm nhận.
– Giọng thơ: vừa triết luận vừa thủ thỉ tâm tình.
– Vấn đề nguồn cội đất nước thấm nhuần cảm xúc tha thiết của nhà thơ trở nên dung dị, dễ hiểu. Cái hay của đoạn thơ không ở ngôn từ mĩ lệ, hình tượng kì vi mà ở chính hồn dân tộc trong những câu thơ văn xuôi thầm thì như cổ tích hiện đại.
– Cảm xúc thơ phát triển: từ cụ thể đến khái quát, từ tình cảm riêng tư, cá nhân đến tình cảm dân tộc lớn lao; bề mặt các sự kiện có vẻ tản mạn nhưng bề sâu nhất quán rung cảm về đất nước trong không gian địa lí, chiều dài lịch sử và chiều sâu văn hoá. Tác phẩm giống như một tuỳ bút bằng thơ với sự cảm nhận mang tính chất toàn vẹn, sâu sắc.
– Giọng thơ thủ thỉ, tâm tình như một chuyện kể của lứa đôi.
4. Điểm khác biệt với những bài thơ cũng viết về đề tài đất nước:
– Thơ xưa viết về những cái kỳ vĩ, đáng để con người ngưỡng vọng.
– Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm lại kéo gần khoảng cách, bình dị hóa, gần gũi hóa. Đất nước mang nét đẹp giản dị, chân chất như chính con người đã làm nên nó: “Đất Nước của Nhân dân”, “núi Vọng Phu”, những “hòn Trống Mái” hay “núi Bút, non Nghiên”…
5. Bầu khí quyển dân gian với không gian bay bổng, mộng mơ, lãng mạn:
“Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
– Viết về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm sử dụng rất nhiều chất liệu văn hóa dân gian. Hiệu quả của việc sử dụng chất liệu văn hóa dân gian vừa: thủ pháp nghệ thuật, vận dụng một cách sáng tạo, “làm nền” tư tưởng của tác phẩm. Nguyễn Khoa Điềm đã làm cho chất liệu thấm nhuần tư tưởng, gắn bó hòa quyện với những cảm xúc một cách tài tình, tạo những ấn tượng không dễ quên, những xúc động sâu sắc với cả vui thú khi đến với “cách nhìn mới về những điều ai cũng biết cả rồi” như thế này.
- Kết bài:
– Qua đoan trích Đất nước, ta thấy được tư tưởng sâu sắc, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ kết tinh tư tưởng yêu nước, niềm tự hào dân tộc của nhà thơ, cũng là đóng góp lớn của ông đối với thơ ca dân tộc. Đoạn thơ khẳng định tài năng sáng tạo, sự am hiểu tường tận về văn hóa dân gian của tác giả.
– Thành công đòi hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm một vốn sống, vốn văn hóa phong phú. Một sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về Đất nước, về Nhân Dân. Đồng thời đời hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có một tài năng, một bản lĩnh của người cầm bút.
– Qua đoạn thơ, để lại bài học sâu sắc về cuộc sống: biết trân trọng những giá trị văn hóa dân gian; bài học về sáng tạo nghệ thuật: đem đến những sáng tạo, mới mẻ từ những giá trị gần gũi, quen thuộc.
Bài viết tham khảo:
Vẻ đẹp chất liệu dân gian trong đoạn trích Đất nước (trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm)
- Mở bài:
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông có sức hấp dẫn bỡi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng về đất nước, về con người Việt Nam. Trường ca Mặt đường khát vọng là tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn trích Đất Nước – phần đầu chương V của bản trường ca, được xem là một trong những đoạn thơ hay về chủ đề đất nước. Làm nên thành công của đoạn trích chính là vẻ đẹp của chất liệu dân gian được nhà thơ vận dụng vừa rất quen thuộc vừa hết sức mới mẻ.
- Thân bài:
Thành công của Nguyễn Khoa Điềm qua đoạn trích một phần là ở việc tạo ra một không khí, một giọng điệu, một không gian nghệ thuật riêng đưa người đọc vào thế giới gần gũi, mỹ lệ của thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao, của phong tục tập quán nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận, tư duy hiện đại với hình thức câu thơ tự do, lời thơ như lời văn xuôi, lời kể chuyện cổ tích. Đó chính là nét đặc sắc thẩm mỹ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” của đoạn trích. Trong đó chất liệu văn hoá, văn học dân gian được sử dụng rất đa dạng và đầy sáng tạo: Có thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao, dân ca, tục ngữ. Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt, vật dụng quen thuộc như miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần, sàng, hòn than, con cúi… Cách vận dụng của tác giả thường là chỉ gợi ra bằng một vài chữ của câu ca dao hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết, cổ tích. Vì vậy nếu làm phép hệ thống, ta sẽ thấy Nguyễn Khoa Điềm sử dụng rất nhiều chất liệu của ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ dân gian, các truyền thuyết và cổ tích, các phong tục, tập quán…trong đoạn trích Đất Nước. Trong đó đáng chú ý nhất:
1. Chất liệu văn hoá dân gian trong đoạn trích Đất Nước gắn với ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ của văn học dân gian.
Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng một cách sáng tạo đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng cho đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng. Hơn nữa, có thể nói chất liệu dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của Nguyễn Khoa Điềm, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật của ông trong đoạn thơ. Chỉ nói đến cách sử dụng ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ, ta cũng thấy sự tinh tế của tác giả trong cách biểu đạt rất riêng, rất độc đáo.
Khi nhà thơ triết lý về cội nguồn sinh ra đất nước cũng là cội nguồn của mỗi gia đình nên Đất Nước không chỉ tạo bỡi những gì trừu tượng, xa xôi mà được hình thành, tạo bỡi từ tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ qua câu thơ:
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Thì đây là ý thơ cho ta thấy tác giả gợi tả từ cái gốc của chất liệu dân gian, đó là từ trong câu ngạn ngữ dân gian “Gừng cay muối mặn”, chỉ những cay đắng gian nan đã gắn bó tình nghĩa vợ chồng. Và thói quen tâm lí, tình cảm này cũng làm cho ta gợi nhớ đến câu ca dao hết sức trìu mến:
Tay bưng chén muối đãi gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Và khi nói về tình yêu đôi lứa, câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng hết sức mượt mà, đất nước gắn bó với con người trọn đời: từ thuở ấu thơ đến lúc thưởng thành và biết yêu thương, hẹn hò, nhớ nhung lại gắn với hình ảnh Đất Nước:
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Khi xúc cảm nên dòng thơ này, nhà thơ như nhằm muốn tâm sự, trong tình yêu đôi lứa, trong nỗi nhớ nhung da diết của em đã hiện hữu tình Đất Nước. Và đó là nỗi nhớ không định hình được mà câu ca dao tình yêu quen thuộc cất lên rất gần gũi và hết đỗi đời thường:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất…
Và khi Nguyễn Khoa Điềm nhằm giải bày Đất Nước trải ra theo chiều dài, chiều rộng của không gian nhưng không gian ấy thật gần gũi, là nơi con chim bay về, nơi con cá móng nước:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thì đó là một ý thơ có thể nhận thấy, nhà thơ lấy cảm hứng trọn vẹn từ câu hò Bình- Trị- Thiên quen thuộc, bỡi vì nhà thơ được sinh ra và trưởng thành trên vùng đất giàu giá trị văn hóa, thơ Nguyễn Khoa Điềm thấm đẫm hồn Huế, chính vì thấm nhuần nền văn hóa dân gian nơi chôn nhau cắt rốn nên khi khái quát về Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nghĩ ngay đến câu ca dao bình dân của quê hương, xứ sở mình:
Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc
Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi
Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời
Kẻo mai kia con cá về sông vịnh, con chim nọ đổi dời về non xanh
Tự hào về một đất nước có bề dày lịch sử bốn nghìn năm, nên nhà thơ đã hướng về một yếu tố mang tính tâm linh nhưng hết sức truyền thống của người Việt. Bỡi chính nhân dân là những người đã làm nên cái hồn văn hoá và đạo lí truyền thống cao cả cho đất nước, nên nhà thơ tâm sự:
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong mỗi chúng ta đều biết cội nguồn dân tộc, gốc gác tổ tiên luôn nhắc nhở mọi người Việt rằng: bái vọng tổ tiên, yêu quê cha đất tổ, chính là những yếu tố góp phần làm nên truyền thống yêu nước của người Việt Nam. Vì thế, bái vọng tổ tiên là điều không thể thiếu, thể hiện sự tôn trọng đầy thiêng liêng của người sống đối với người đã khuất. Đây cũng là ý thơ mà trong ca dao đã từng nhắc nhở:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Có thể nói trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng màu sắc của dân tộc, và nhà thơ đã chọn lọc từ những câu ca dao tiêu biểu nhất để nói về các phương diện truyền thống khác nhau của nhân dân. Trong đó câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã nhằm diễn tả sự say đắm trong tình yêu nhân văn, nhân bản và cao đẹp nhất:
Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Là ý tứ từ câu ca dao đầy ngọt ngào, trìu mến, bình dị và hết sức thân quen, nó thường trực hằng ngày mà trong những đôi nam nữ, trai gái yêu nhau không khó để nhận ra:
Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru
Có lúc câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm là nhằm nói đến sự quý trọng trong lối sống tình nghĩa, biết nâng niu, trân trọng những gì có được từ khó nhọc, gian nan:
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Thì đâu đó phản phất trong ca dao cũng đã đúc kết và nhắc nhở mọi người rằng:
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng
Ngoài ra, câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng nói đến một phẩm chất nữa của nhân dân Việt Nam là bền bỉ kiên cường trong chiến đấu dựng và giữ nước, vì đất nước là của nhân dân, do nhân dân làm nên, nên đất nước mãi mãi trường tồn, bất diệt:
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Điều này cũng có nghĩa là trong ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ đã luyến láy, cảm hứng xuất phát từ cái gốc của câu ca dao đầy hùng hồn và đanh thép:
Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què
Có thể thấy ở tất cả những dòng thơ trên của Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ đã vận dụng và chuyển ý sáng tạo những câu ca dao, ngạn ngữ thành lời thơ đằm thắm, trữ tình, thiết tha của mình, không ngoài mục đích là ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc văn hoá của người Việt Nam.
2. Chất liệu văn hoá dân gian trong Đất Nước còn gắn với những thần thoại, truyền thuyết và truyện cổ tích…
Đặc sắc, độc đáo về nghệ thuật của đoạn trích Đất Nước là sự cảm nhận về đất nước trong một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện. Vừa theo mạch cảm xúc thơ, tác giả vừa huy động vào thơ cả một “kho tri thức” phong phú mang tính tổng thể các loại văn học dân gian, đã làm nền tảng vững chắc để làm nổi bật tư tưởng của đoạn trích. Trong lời mở đầu đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm có dòng thơ:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Lời thơ “ngày xửa ngày xưa” là câu mở đầu thường thấy trong các truyện cổ dân gian, nó mang âm hưởng của những câu chuyện cổ tích, đưa ta về một thuở rất xa xưa.
Sự kì diệu của đất nước trong chống giặc ngoại xâm cũng được nhà thơ gợi lên từ tinh thần nhổ tre đánh giặc n thuở nào của Thánh Gióng mà truyền thuyết đã kể lại. Và những hình tượng quen thuộc trong thần thoại, truyền thuyết như “chim, rồng, Lạc Long Quân, u Cơ, bọc trăm trứng… ” cùng hội tụ trong trường liên tưởng của nhà thơ đã làm nổi bật ý thơ có tầm khái quát cao: dân tộc ta là “con rồng cháu tiên”, cùng được sinh ra từ bọc trăm trứng nở ra trăm con của cha là Lạc Long Quân và mẹ u Cơ. Vì vậy để gợi nhớ truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên, Nguyễn Khoa Điềm lại liên tưởng ngay rằng:
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Nếu trong mỗi chúng ta, ai đó một khi chưa hiểu hết về đất nước với những khái niệm trừu tượng như lãnh thổ, chủ quyền, thì chúng ta sẽ cảm nhận được đất nước là một cái gì đó rất gần gũi, quen thuộc qua những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích mẹ thường kể từ thuở còn nằm trong nôi.
3. Chất liệu văn hoá dân gian còn gắn với phong tục tập quán của người Việt Nam.
Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống cao đẹp như truyền thống yêu nước, anh hùng, lao động, văn hóa. Trước hết là truyền thống văn hóa với phong tục ngàn đời của cha ông ta đúc kết lại. Vì thế, khi Nguyễn Khoa Điềm tâm sự:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đó là phong tục “miếng trầu là đầu câu chuyện” có từ thuở các vua Hùng dựng nước. Hay gợi nhớ câu chuyện “Trầu cau” đầy nghĩa tình vừa mang yếu tố truyền thuyết lại vừa đậm yếu tố đời thường cũng là gợi nhớ tục ăn trầu của người Việt.
Hay khi nhà thơ miêu tả cái dáng dấp thấp thoáng của người mẹ hiện lên trong vẻ đẹp đầy nữ tính của người phụ nữ Việt Nam, nhà thơ đã viết:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Tục búi tóc thành cuộn sau gáy của người dân Việt, đó là tập quán thể hiện quan niệm “cái răng cái tóc là góc con người” của người Việt cổ xưa mà đã một thời tô điểm vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ Việt Nam.
Nhà thơ đã đưa đến cho người đọc quan niệm hình thành đất nước, đất nước chúng ta được hình thành từ trong cộng đồng của những người có chung kiểu ngôn ngữ nôm na dễ hiểu như thói quen đặt tên con bằng tên các đồ vật cho dễ nuôi của người dân lao động nước ta:
Cái kèo, cái cột thành tên
Với miếng trầu dung dị hiện lên trên cái miệng móm mém nhai trầu của bà, mái tóc bới hiền hòa của mẹ, cách gọi tên “cái kèo, cái cột” dân dã. Tất cả những điều tưởng chừng như bình thường ấy đã trở thành nếp sống, thành phẩm chất tốt đẹp, thành thuần phong mĩ tục đậm đà bản sắc mang tính văn hoá Việt Nam.
Có thể nói từ những hệ thống như trên, chúng ta thấy Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất liệu văn hoá, văn học dân gian một cách sáng tạo. Không trích dẫn nguyên văn câu ca dao, tục ngữ, dân ca, không kể dài dòng các truyền thuyết, truyện cổ tích, các phong tục tập quán, mà nhà thơ chỉ bắt lấy rất tinh tế cái hồn của chất liệu dân gian để gợi liên tưởng, gợi suy ngẫm cho người đọc. Cho nên khi tiếp xúc tạo cho người đọc cảm giác vừa quen vừa lạ. Cảm giác “quen” vì từ thuở ấu thơ mỗi người trong chúng ta, ai cũng đã sống trong không khí văn hoá dân gian, cho nên trong mỗi người Việt Nam hết sức nhạy cảm với ca dao dân ca, cổ tích, truyền thuyết hay các phong tục tập quán…Chỉ cần một lay động nhỏ, là tâm hồn người Việt Nam đã rung lên bao hồi ức. Còn cảm giác “lạ” là khi đọc những dòng thơ này là do từ những chất liệu văn hoá, văn học dân gian rất gần gũi ấy, nhà thơ đã thu nạp được nhiều ý tưởng rất thơ, rất êm dịu và cũng rất bất ngờ đem lại sức hấp dẫn cho đoạn thơ.
Đến đây ta có thể nhận ra rằng: vẻ đẹp của chất liệu văn hoá dân gian là vô cùng quan trọng đối với văn học viết nói riêng và văn học nghệ thuật nói chung. Và cũng chính những chất liệu văn hóa ấy khi được cảm nhận sâu sắc và vận dụng sáng tạo vào thơ sẽ tạo nên những khoảng âm vang rất lớn để thơ ca trường tồn và song hành cùng thời gian, chính chiều sâu của những chất liệu văn hóa dân gian đã tạo nên nét độc đáo riêng của đoạn trích Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
- Kết bài:
Qua những cảm nhận hết sức bình dị nhưng vô cùng mới mẻ bằng việc sử dụng thành công, kết hợp nhuần nhuyễn các chất liệu văn học, văn hóa dân gian truyền thống tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp một quan điểm sâu sắc, mới mẻ về chủ đề Đất Nước – chủ đề bao trùm xuyên suốt tiến trình văn học Việt Nam. Quan niệm đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mang dấu ấn riêng biệt của sự trải nghiệm, chiêm nghiệm, triết lí, suy tư, từ đó đem đến cảm nhận, cách khám phá quê hương đất nước trong cái nhìn toàn vẹn, nổi bật là tư tưởng cốt lõi về nhân dân: “Đất Nước của nhân dân” và nhân dân chính là người kiến tạo, tạo dựng, đi qua những giao lao và làm nên chiến công trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Bài văn tham khảo:
Trong đoạn trích “Đất Nước”, trích trường ca “Mặt đường khát vọng”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm viết:
Đất là nơi anh đến trường […]
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng.
(Trích Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2019, Tr. 119)
Anh/ chị hãy phân tích đoạn trích trên; từ đó nhận xét về việc vận dụng chất liệu văn hóa dân gian được thể hiện trong đoạn trích.
BÀI LÀM.
- Mở bài:
Mác-xen Pruxt cho rằng: “Một cuộc thám hiểm thực sự không phải ở chỗ cần một vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới”. Đề tài đất nước là một “vùng đất” quen thuộc. Trước Nguyễn Khoa Điềm, có rất nhiều nhà thơ tên tuổi đã khai thác đề tài này, và đã để lại cho đời những đỉnh cao sừng sững thách thức thời gian. Lựa chọn cho mình đề tài đất nước để khởi sự viết trường ca “Mặt đường khát vọng”, Nguyễn Khoa Điềm quả thực đã dấn thân vào một nhiệm vụ khó khăn. Tuy nhiên, bằng một “đôi mắt mới”, dựa trên những chiêm nghiệm và suy tư độc đáo, với việc sử dụng tài tình các chất liệu văn hóa dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm được cho mình một cách nhìn riêng. Do vậy, hình tượng đất nước trong thơ ông không những không bị chìm đi giữa vô số những tượng đài trước đó, mà còn trở thành một công trình độc đáo và riêng biệt. Đoạn thơ sau đây là minh chứng tiêu biểu cho sự độc đáo và riêng biệt ấy:
“Đất là nơi anh đến trường (…)
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
- Thân bài:
1. Khái quát tác giả, tác phẩm.
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất trí tuệ, xúc cảm dồn nén và suy tư sâu lắng, thể hiện tâm tư của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm rất thành công với những sáng tác thơ về đề tài đất nước, tiêu biểu nhất là trường ca “Mặt đường khát vọng”, trong đó có đoạn trích “Đất Nước”. Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông, đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Đoạn trích “Đất nước” là phần đầu chương năm của bản trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đoạn trích là những suy nghĩ của tác giả về đất nước được nhìn trên nhiều góc độ, với tư tưởng chủ đạo là “Đất Nước của Nhân dân”.
2. Cảm nhận đoạn thơ.
Nếu ở chín câu thơ đầu, nhà thơ đi vào lí giải cội nguồn xa xưa của đất nước, để trả lời cho câu hỏi: Đất Nước có từ bao giờ, thì ở mười ba câu thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Đất Nước là gì?
Điểm đầu tiên cần chú ý ở đoạn thơ này, đó chính là nghệ thuật chiết tự: tách “Đất Nước” ra làm hai thành tố riêng biệt: “Đất” và “Nước”. Đất nước vốn là một khái niệm trừu tượng, mơ hồ, nhưng khi tách ra, nó lại trở nên cụ thể, sinh động. Đất Nước cao xa vời vợi bỗng trở nên gần gũi, dễ nắm bắt.
Tuy nhiên, sau khi chiết tự đất nước thành hai yếu tố đất và nước để xem xét lí giải, Nguyễn Khoa Điềm lại tái kết hợp chúng thành một. Và khi tái kết hợp như vậy, cộng với việc lặp lại cụm cấu trúc “Đất là… Nước là… Đất Nước là…”, ông đã làm cho người đọc nhận ra: đất nước vừa rất riêng nhưng cũng rất chung, vừa cụ thể nhưng cũng vừa trừu tượng, vừa gần gũi nhưng cũng vừa xa xôi. Hẳn ông muốn nhắn nhủ với chúng ta một điều rằng: đất nước là tất cả, đất nước tồn tại ở khắp mọi nơi, từ sự vật nhỏ bé, bình thường cho đến những cái lớn lao vĩ đại. Đất Nước vừa hiển hiện trong từng đối tượng riêng lẻ, nhưng đồng thời lại trọn vẹn hài hòa trong một thể thống nhất không thể chia lìa.
Mười ba câu thơ này có ba tiểu đoạn, mỗi tiểu đoạn mở đầu bằng việc chiết tự đất nước thành hai yếu tố riêng biệt: đất và nước, và kết thúc bằng việc tái kết hợp hai thành tố đó.
Ở tiểu đoạn thứ nhất, ông định nghĩa đất nước là những điều gần gũi, bình dị:
“Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
“Đất” và “Nước” trong hai câu thơ đầu hoàn toàn có thể hiểu theo nghĩa đen. “Đất” của con đường đến trường, “nước” trên bến sông em tắm. Chúng ta đi trên đất và hòa mình trong nước, đó là hai yếu tố không thể thiếu cho sự sống của mỗi con người. Tuy nhiên, khi gắn “đất” với “nơi anh đến trường”, “nước” với “nơi em tắm”, nó còn gợi ra một sắc thái cảm xúc khác: đó là lòng hoài niệm về những kí ức trong trẻo của tuổi thơ, là con đường đất giữa cánh đồng xanh mát mà mỗi ngày anh đi học, là bến sông thanh bình mỗi đêm trăng em hòa mình tắm mát. Đất Nước ở đây đã được đồng hóa với làng mạc, quê hương. Nó gợi ta nhớ đến những vần thơ tha thiết của Đỗ Trung Quân, khi ông cũng đem đến cho ta một định nghĩa thật giản dị và cảm động:
“Quê hương là chùm khế ngọt Cho con trèo hái mỗi ngày Quê hương là đường đi học Con về rợp bướm vàng bay”.
Ở hai câu sau, hai thành tố đất và nước lại được tái kết hợp thành đất nước:
“Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Điều gì đã giúp gắn kết “đất” và “nước” để trở thành “đất nước”. Đó chính là tình yêu. Nếu ở hai câu đầu, đất gắn với anh, nước gắn với em, thì giờ đây, khi hai đứa yêu nhau, như một lẽ tất yếu, đất nước đã hài hòa làm một.
Đất nước, từ chỗ gợi lên hình ảnh của tuổi thơ, của quê hương, giờ kết tinh lại và thăng hoa thành không gian riêng tư của tình yêu đôi lứa. Đó là không gian thấm đẫm hương vị ngọt ngào say đắm của buổi đầu hò hẹn, là nơi chất chứa nỗi niềm nhung nhớ thiết tha bổi hổi của mối tình đầu. Hình ảnh “em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” gợi ta nhớ đến tâm trạng nhớ nhung đến nỗi đứng ngồi không yên, ra ngẩn vào ngơ của người con gái lần đầu tiên biết yêu đương:
“Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai”.
Như vậy, đất nước, từ chỗ chỉ là những yếu tố vật chất gắn liền với đời sống con người, đã dần dần đi đến chỗ trở thành tâm tư, tình cảm; từ chỗ có thể tách bạch mà gọi tên, đến chỗ hoà quyện, thấm đẫm, bao bọc lấy mọi sinh hoạt tinh thần. Đất Nước như vậy, đã tồn tại ở những cõi miền sâu xa nhất, không thể nhạt phai. Đây là quả là một khám phá rất mới mẻ mà trước Nguyễn Khoa Điềm, chưa ai nói được.
Nếu ở tiểu đoạn thứ nhất, Đất Nước được Nguyễn Khoa Điềm định nghĩa là những gì gần gũi, bình dị, gắn với quê hương, với tình cảm riêng tư, thì ở tiểu đoạn thứ hai, đất nước được mở rộng với chiều kích của non sông, gắn với tình cảm cộng đồng:
“Đất là nơi “con chim Phượng Hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Đất Nước lại một lần nữa được tách thành hai thành tố: “Đất” và “Nước”. Có điều, thay vì gắn với không gian thân thuộc nhỏ hẹp là con đường đến trường, là nơi em tắm như ở tiểu đoạn một, thì ở đây, “đất” được gắn với hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, “nước” được gắn với hình ảnh “con cá ngư ông móng nước biển khơi”. “Núi bạc”, “biển khơi”, hai hình ảnh mở ra trước mắt chúng ta một không gian rộng lớn, kì vĩ, cho thấy chiều kích lớn lao của non sông đất nước. Như vậy, phạm vi địa lí của đất nước không chỉ là quê hương với con đường, bến sông quen thuộc, mà nó còn là những nơi mà có thể ta chưa đặt chân qua. Với phạm vi rộng lớn như vậy, thì đất nước cũng không chỉ là anh, là em, mà còn là mọi con người, dù miền núi hay miền biển, cùng chung sống trên dải đất hình chữ S này, dù có thể đó là những con người mà ta chưa một lần gặp mặt.
Hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về” và “con cá ngư ông móng nước’ còn mang một ý nghĩa khác: đấy chính là quá trình di dân, đi khai hoang mở đất, đào sông lấn biển của người Việt, để khai sinh ra những vùng đất mới, giúp mở mang bờ cõi nước nhà.
Ở hai câu thơ tiếp, dung lượng câu thơ bỗng nhiên thu ngắn lại, như một khoảng khắc lắng lòng để chiêm nghiệm:
“Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông”
Những cuộc di dân ấy, quá trình mở mang bờ cõi ấy không chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian xác định, ở một nơi chốn xác định, mà nó diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử, với “thời gian đằng đẵng”, trong cả một không gian rộng lớn: “không gian mênh mông”. Đất Nước đã lớn lên bằng công sức của bao thế hệ, trải qua bao vất vả gian lao như thế.
Ở hai câu thơ cuối của tiểu đoạn này, “Đất” và “Nước” lại được tái kết hợp làm một:
“Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Như vậy, nếu ở tiểu đoạn đầu, “Đất Nước” kết tinh lại trong trong tình yêu đôi lứa, thì ở đây, đất nước hội tụ trong tình cảm cộng đồng. Dù lên rừng, dù xuống biển, dù là người miền ngược hay miền xuôi, chúng ta cũng đều là con dân của nước Việt. Trải qua bao sóng gió của thời cuộc, trải qua bao lần li tán, tha hương, thì cuối cùng, chúng ta vẫn gặp nhau, vẫn “đoàn tụ” trong một không gian duy nhất: đấy là đất nước Việt Nam. Dù ở đâu, chúng ta cũng vẫn là người con của đất nước, có cùng một Tổ quốc để hướng về. Ý thơ gợi ta nhớ đến lời dặn dò tha thiết của ông cha:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Ở tiểu đoạn cuối cùng, Nguyễn Khoa Điềm hướng cái nhìn của mình về quá khứ xa xăm, để định nghĩa đất nước là cội nguồn cao quý, linh thiêng:
“Đất là nơi Chim về Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”.
Ở hai câu thơ đầu, Đất Nước lại tiếp tục được chiết tự thành hai yếu tố: Đất và Nước. Câu thơ “Đất là nơi Chim về” gợi ra trong tâm thức người đọc hình ảnh giống chim Lạc cao quý, biểu tượng của dân tộc Việt kiêu hãnh, bất khuất mà ta vẫn thấy xuất hiện trên mặt của những chiếc trống đồng Đông Sơn. Nó còn gợi ta nhớ đến sự tích Âu Cơ dẫn năm mươi người con lên núi. Nó cũng gợi nhắc câu thành ngữ “Đất lành chim đậu”, ca ngợi sự trù phú tốt tươi của mảnh đất Việt Nam. Câu thơ “Nước là nơi Rồng ở” đưa ta về với huyền sử xa xăm, khi Lạc Long Quân dẫn năm mươi người con xuống biển.
Tuy vậy, dù lên núi hay xuống biển, thì “Đất” và “Nước” vẫn là nơi cư ngụ của con Rồng cháu Tiên, con Lạc cháu Hồng, của những con người có chung giòng giống cao quý. Ở đây, tuy sự tái kết hợp hai thành tố đất và nước không trực tiếp xuất hiện, nhưng hai câu thơ “Lạc Long Quân và Âu Cơ / Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” đã thể hiện sự gắn kết đó. Dù có đi đâu về đâu, lên núi hay xuống biển, chúng ta cũng vẫn là con cùng cha cùng mẹ, cùng chung một bọc, cùng gọi nhau hai tiếng “đồng bào”. Như vậy, đến đây, theo Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không chỉ là kết tinh của tình yêu đôi lứa, của tình cảm cộng đồng, mà sâu sắc hơn, đất nước còn là kết tinh của tình ruột thịt.
Nhìn lại toàn bộ đoạn thơ, ta thấy những lí giải về khái niệm đất nước đã ngày càng được nâng lên tầm khái quát. Ở mỗi tiểu đoạn, đất nước được tách ra rồi dung hợp lại, được khám phá từ cụ thể đến trừu tượng, từ vật chất đến tinh thần, để rồi qua cả ba tiểu đoạn, người đọc nhận ra, đất nước vừa gần gũi lại vừa cao cả, vừa rất đỗi bình dị mà cũng thật thiêng liêng. Nhận thức ấy khiến ta càng thêm yêu thương, gắn bó, lại vừa trân trọng, tự hào về đất nước của mình.
3. Nghệ thuật:
Thành công về mặt nghệ thuật của đoạn thơ là ở việc vận dụng sáng tạo các chất liệu văn hóa dân gian như thần thoại, truyền thuyết, ca dao, dân ca…; ở thể thơ tự do, biến đổi linh hoạt về nhịp điệu; kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính luận và trữ tình; cách chiết tự rồi lại hợp nhất khái niệm “Đất Nước” vừa giúp khơi sâu khái niệm, biến cái trừu tượng trở nên gần gũi, vừa cho thấy đất nước là một thể hài hòa thống nhất không thể tách rời.
4. Nhận xét về việc vận dụng chất liệu văn hóa dân gian được thể hiện trong đoạn trích:
Có thể nói, qua đoạn trích trên, ta thấy Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rất nhiều những chất liệu văn hóa dân gian. Những chất liệu ấy vừa quen thuộc (gần gũi với cuộc sống của mỗi con người Việt Nam) vừa mới lạ (với những sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn). Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng, phong phú: có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt; có ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích. Cách vận dụng những chất liệu ấy vào thơ cũng rất tài tình: khi thì lấy nguyên vẹn, khi chỉ mượn ý mượn tứ để nhằm diễn tả suy nghĩ và cảm xúc của mình. Chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, mơ mộng. Hơn nữa, có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật ở đoạn trích này.
- Kết bài:
Bằng cái nhìn mới mẻ mang đầy tính phát hiện, bằng những chiêm nghiệm và suy tư vô cùng sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến cho ta một hình dung thật trọn vẹn và thấm thía về Đất Nước. Với thể thơ tự do linh hoạt; giọng điệu lúc thủ thỉ nhẹ nhàng, lúc sôi nổi thiết tha; các chất liệu văn hóa dân gian được vận dụng nhuần nhuyễn, mười ba câu thơ mà chúng ta vừa phân tích nói riêng, và đoạn trích “Đất Nước” nói chung xứng đáng là một trong những bài ca bất tử về đất nước, mà dù thời gian có đi qua, những giai điệu ấy vẫn sẽ mãi mãi làm thổn thức trái tim của mọi người dân đất Việt. Và từ sự thổn thức ấy, trong mỗi con con người sẽ khởi phát niềm tự hào mãnh liệt, tình yêu đất nước sục sôi, muôn đời đồng lòng đồng dạ, quyết đấu tranh đến hơi thở cuối cùng để gìn giữ mảnh đất thiêng liêng này. Đó cũng chính là điều mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắn gửi, như trong một đoạn thơ khác của trường ca “Mặt đường khát vọng”, ông đã viết:
“Chẳng bao giờ xương máu phải bơ vơ
Ôi sông núi uy nghi ngàn dặm đất
Có nghe tiếng chúng con: Xin có mặt!
Nguyện làm người xung kích của quê hương”.