»» Nội dung bài viết:
Phân tích cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng
* Gợi ý làm bài:
Lãng mạn là cảm hứng chủ đạo của nhà thơ Quang Dũng ở bài thơ Tây Tiến. Chính nguồn cảm hứng ấy đã biến thành nguồn cảm xúc tuôn trào, thôi thúc nhà thơ sáng tác. Do đó, bài thơ viết về Tây Bắc và những người lính Tây Tiến nhưng lại là một tác phẩm trữ tình, một cái tôi cá nhân đầy cảm xúc, với nỗi nhớ khi đong đầy, tràn ngập, khi bâng khuâng, luyến tiếc.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái nhìn đối với thiên nhiên.
– Thiên nhiên Tây Bắc với núi đồi trùng điệp, hiểm trở, nhưng dưới con mắt của những người lính Tây Tiến, những cảnh tượng ấy lại có vẻ đẹp tươi mới, hấp dẫn của sự khám phá, kiếm tìm.
– Hơn nữa, người lính Tây Tiến còn tìm thấy ở đó những cảnh thơ mộng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở chân dung người lính lãng mạn hào hoa:
– Xem thường nguy nan, xem thường bệnh tật, cái chết.
– Ấp ủ nhiều ước mơ tươi đẹp.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở giọng điệu (khi mềm mại, thiết tha, lúc hung tráng, khỏe mạnh), ở thủ pháp tương phản (hình ảnh), từ ngữ ước lệ… Đây là những hình thức nghệ thuật rất đặc thù của thơ ca lãng mạn nói chung.
- Cảm nhận 14 câu thơ đầu bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng
- Cảm nhận vẻ đẹp hào hoa, hào hùng và bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến
Bài tham khảo:
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng.
- Mở bài:
Quang Dũng là một trong những nhà thơ nổi bậc của nền thơ Việt Nam đầu thời kì kháng chiến chống Pháp. Thơ ông giàu chất lãng mạn, là sự kết hợp hài hòa giữ thơ ca, âm nhạc và hội họa. Quang Dũng thường viết về quê hương với tình yêu mến tha thiết. Tây Tiến là tác phẩm nổi tiếng nhất của Quang Dũng, được in trong tập Đôi mắt người Sơn Tây. Bài thơ được viết trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng rất trữ tình, thơ mộng.
- Thân bài:
Cảm hứng lãng mạn trong văn học.
Cảm hứng lãng mạn trong văn học được hiểu là xu thế vươn lên, vượt lên trên thực tại khách quan bằng cảm xúc chủ quan của người nghệ sĩ, thể hiện những khát vọng mạnh mẽ hướng về những vẻ đẹp khác lạ trong thế giới của mơ ước, tưởng tượng, ở tương lai hay quá khứ.
Cảm hứng lãng mạn vì thế thường khai thác những đề tài như thiên nhiên tình yêu, tôn giáo, hồi tưởng kỉ niệm,….; đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ, phi thường, độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hằng ngày. Cảm hứng lãng mạn đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của tưởng tượng, liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa trương phóng đại, thủ pháp tương phản, đối lập, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và gây ấn tượng mạnh mẽ.
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến.
Trong bài thơ Tây tiến, nhà thơ Quang Dũng đã rất chú trọng đến những đặc trưng của cảm hứng lãng mạn khi biểu đạt cảm xúc của mình. Có thể thấy, cảm hứng lãng mạng của bài thơ Tây Tiến thể hiện ở hai phương diện. Thứ nhất là ở nội dung cảm hứng: Đó là nổi nhớ một thời chiến tranh gian khổ, hi sinh; hình tượng tiên nhiên; hình tượng người lính tây tiến. Thứ hai là ở nghệ thuật thể hiện: Đó là bút pháp tương phản đối lập trong việc thể hiện hiện thực khắc nghiệt của cuộc sống chiến đấu và chất thơ từ chính cuộc sống đó; nét bi thương và hào hùng của hình tượng người lính; giọng điệu bi tráng của tác phẩm,…
Cảm hứng lãng mạn qua việc miêu tả bức tranh thiên nhiên Tây Tiến.
Bút pháp lãng mạn thể hiện trước tiên ở sự tương phản vẻ đẹp của thiên nhiên vừa thơ mộng trữ tình, vừa dữ dội, kì vĩ của núi rừng qua nỗi nhớ của người lính Tây Tiến. Quang Dũng đã chú ý lựa chọn những hình ảnh tiêu biểu nhất ẩn chứa linh hồn của miền đất này. Bút pháp tô đậm trong diễn đạt càng làm cho thiên nhiên thêm phần kì bí, huyền ảo:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Cách miêu tả những khó khăn, trắc trở do thiên nhiên vừa hết sức chân thực vừa bay bổng vô cùng. Ở đó, ta vẫn nhận thấy những trở ngại lớn, lại vừa thấy sức mạnh của con người vượt lên trên hoàn cảnh, chiến thắng thiên nhiên:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Những bước chân hụt hẫng trên dốc cao, ngàn thước bước lên cao, rồi ngàn thước dậm xuống thấp trùng trùng điệp điệp. Thiên nhiên với những khó khăn dường như luôn đợi sẵn đón bước con người. Câu thơ: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống như gãy làm đôi đã gây cho người đọc ấn tượng mạnh về mức độ hiểm trở của núi rừng trên đường hành quân của người lính. Cho đến chiều đêm, lúc người lính có thể nghỉ ngơi, những hiểm nguy vẫn không ngừng bám đuổi:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Tiếng thác rừng xa như vẫn còn réo gọi, thách thức. Thú dữ rình rập khắp mọi ngã tối. Ở đâu đó trong bóng đem, sự nguy hiểm luôn sẵn sàng. Tưởng chừng như tất cả những điều đáng sợ ấy sẽ làm người lính run sợ, khiếp nhược. Nhưng ngược lại, họ không hề quan tâm, họ hướng tâm hồn về với bản làng ấm áp trong sương khói mơ hồ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Thiên nhiên Tây tiến còn tiếp tục hiện lên với hình ảnh dòng sông và chiếc thuyền độc mộc:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Dường như khắp bài thơ ta chưa từng thấy ánh nắng hay ánh sáng. Bao trùm lên đó là làn sương mờ ảo, lạnh lùng. Những bờ lau hiu hắt, thê lương, ảm đạm. Trên nền cảnh ấy, con người xuất hiện nhưng hết sức đơn độc và nhỏ bé. Giữa đại ngàn bao la, con người như đóa hoa trôi vô định và lặng im. Đến khổ cuối bài thơ, tác giả nâng cảm giác ấy lên đến cùng cực:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Thiên nhiên đáng sợ nhưng cũng toát lên vẽ hùng vĩ của núi cao, rừng sâu. Bên cạnh đó còn là những hình ảnh của nơi phương xa xứ lạ khiến cho thiên nhiên vừa đẹp vừa gợi chút hoang mang. Vẻ thơ mộng trữ tình của cảnh vật hiện lên với tất cả mỹ lệ, quyến rủ, làm xao xuyến lòng người.
Cảm hứng lãng mạn trong việc khắc hoạ hình tượng người lính Tây Tiến.
Bút pháp lãng mạn phát huy ưu thế trong việc xây dựng sự tương phản trong vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến. Cái chết chính là điểm nhấn mạnh mẽ trong bài thơ này. Quang Dũng đã rất táo bạo khi diễn tả chân thực hình ảnh ấy. Ông không hề né tránh hay cố tô vẽ nó theo những cách khác:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Người lính chết trong tư thế hành quân. Nghĩa là họ đã chiến đấu đến tận cùng sự sống. Họ không bỏ cuộc. Họ chỉ không bước nữa. Họ không đầu hàng. Họ chỉ dừng lại khi sự sống chấm dứt. Đó là một cái chết oai hùng, lẫm liệt, đủ sức nâng cao tình yêu cuộc sống và tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh ở mỗi con người Việt Nam. như ý thơ của Lê Anh Xuân đã viết:
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
(Dáng đứng Việt Nam)
trên khung cảnh dữ dội của núi rừng và cuộc chiến đấu, hình ảnh người lính hiện lên thật rõ ràng quan những câu thơ vừa lãng mạn vừa chân thực:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Những khó khăn thử thách không ngăn cản được bước chân người lính trên con đường hành quân cheo leo, hiểm trở. Những nét bi thương “không mọc tóc”, ” mồ viễn xứ”.…. là nốt trầm trong bản hùng ca về những con người “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng” mạnh mẽ ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Họ mang trong mình lý tưởng cao đẹp và tình yêu cuộc sống thiết tha. Càng yêu cuộc đời, yêu đất nước họ càng không ngại gian khổ, hi sinh. Kẻ thù hung bạo, thiên nhiên khốc liệt cũng không thể nào ngăn cản họ nhớ về đôi mắt người xưa. Từ “trừng” thể hiện lòng căm thù tột độ và sự cảnh báo của người lính đối với kẻ thù về một sự đáp trả khủng khiếp mà họ sẽ tiến hành.
Bài thơ là sự khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến đối với thời đại và đối với lịch sử. Đó là vẻ đẹp tinh thần của người vệ quốc quân thời kì đầu kháng chiến: một đi không trở lại, ra đi không hẹn ngày về. Hình ảnh người lính Tây Tiến sẽ còn mãi với thời gian, với lịch sử dân tộc, là chứng nhân đẹp đẽ của thời đại chống thực dân Pháp
- Kết bài:
Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng tạo một dấu ấn đậm nét trong nền thơ Việt Nam thời kì chống thực dân Pháp. Cách khắc họa vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, sự hi sinh, bi tráng của người lính Tây Tiến và vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên miền Tây qua nổi nhớ của tác giả đã tạo nên vẽ đẹp riêng hét sức độc đáo của tác phẩm này. Bài thơ cũng cho thấy nét hồn nhiên, tinh tế, sự hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn của hồn thơ Quang Dũng. Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ còn có sức hấp dẫn lâu dài đối với người đọc.
Bài tham khảo:
Vẻ đẹp bút pháp lãng mạn trong bài thơ TÂY TIẾN.
- Mở bài:
Quang Dũng sáng tác không nhiều, nhưng thơ ông để lại ấn tượng sâu sắc với những rung cảm sâu lắng trong tâm hồn người đọc. Thơ Quang Dũng hiện lên một “cái tôi” hào hoa, thanh lịch giàu chất lãng mạn, với khả năng cảm nhận một cách tinh tế vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên, bình dị, chân thật. Bài thơ Tây Tiến tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Không lẩn tránh đề cập đến cái bi nhưng cảm hứng lãng mạn đã đem đến cho cái bi màu sắc và âm hưởng tráng lệ, hào hùng. Tinh thần bi tráng, cảm hứng lãng mạn đã được triển khai trên nền cảm xúc kí ức – Nhớ Tây Tiến.
- Thân bài:
Tây Tiến là tên một binh đoàn có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt – Lào, tiêu hao sinh lực địch. Phần đông lính Tây Tiến là những chàng trai Hà thành. Họ mang vào chiến trường không chỉ có tình yêu Tổ quốc, khát vọng độc lập mà còn có những nét hào hoa thanh lịch của người Tràng An. Cuộc sống gian khổ, thiếu thốn không ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời và mộng mơ.
Năm 1947, Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến, ông từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn này. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Nỗi nhớ Tây Tiến đau đáu, da diết đã khiến nhà thơ viết nên một bài thơ tuyệt tác.
Tây Tiến gợi lên một cuộc hành quân về phía Tây Tổ quốc, một cuộc hành quân đầy gian lao vất vả giữa vùng rừng núi đầy hiểm trở, hung vĩ đầy vẻ hoang dại và huyền bí.
Vốn sẵn tố chất hào hoa của người trai đất Hà thành, chất hào hoa lại được gặp thiên nhiên và con người miền Tây với vẻ đẹp huyền hoặc, Quang Dũng lại từng sống và chứng kiến những tháng ngày hào hung giữa binh đoàn Tây Tiến, hồn thơ ấy đã hòa quyện lại tất cả để tạo nên những thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn.
Cảm hứng lãng mạn của bài thơ trước hết là nỗi nhớ ngập tràn: tác giả nhớ rừng núi hoang vu, hiểm trở, dữ dội, nhớ những cảnh đẹp huyền ảo nên thơ, đặc biệt là nhớ bước quân hành của đoàn quân Tây Tiến, nhớ gương mặt, ánh mắt, nhớ cả những hi sinh gian khổ, những giây phút đồng đội nằm xuống nơi biên cương. Tất cả cứ theo dòng hồi ức mà hiện lên cùng với trí tưởng tượng phóng khoáng, bay bổng.
Để giúp cho trí tướng tượng bay cao, bay xa và tình cảm, cảm xúc được diễn tả một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất, nhà thơ đã vận dựng thủ pháp nghệ thuật tô đậm cái phi thường, gây ấn tượng mạnh về cái hùng vĩ, dữ dội cũng như cái tuyệt mĩ, thơ mộng. Một trong những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng đắc địa nhất là thủ pháp đối lập. Đối lập giữa cái hùng vĩ, dữ dội với cái tuyệt mĩ, thơ mộng, đối lập giữa gian khổ, vất vả với anh hùng, bất khuất, đối lập giữa cái bi và cái hùng…
Trong Tây Tiến, thiên nhiên sừng sững trở thành một hình tượng lớn. Hồn thơ lãng mạn cứa Quang Dũng đã tô đậm, tuyệt đối hóa cái sừng sững, hùng vĩ của thiên nhiên để qua đó thấy được ý chí dấn thân của người lính Tây Tiến.
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngủi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Bốn câu thơ trên được coi là tuyệt bút trong việc khắc họa cái hùng vĩ, hiểm trở cùa thiên nhiên. “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”. Nhịp điệu tiếp nối liên tục của những thanh trắc kết hợp với cùng một lúc hai từ láy tượng hình (khúc khuỷu, thăm thẳm) dường như đã đẩy chiều cao của dốc núi lênn vời vợi với hình thế cheo leo, gập ghềnh. Cách ngắt nhịp câu thơ (Dốc lên khúc khuỷu / dốc thăm thẳm) như muốn diễn tả nỗi vất vả, cực nhọc cùng với lưng áo đẫm mồ hôi của người lính Tây Tiến.
Chưa đủ. ngòi bút Quang Dũng vẫn tiếp tục đẩy chiều cao của dốc núi lên lên tuyệt đối:
Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Núi cao tưởng chừng như chạm mây, mây chất thành đống, thành cồn, “heo hút cồn mây”, người lính như đứng trên mây, giữa bốn bề mây đến nỗi “súng ngửi trời”. Chữ “ngửi” được dùng rất bạo. “Súng ngửi trời” là cách đo chiều cao của người lính – vừa chính xác, vừa rất “tếu”. Hiệu quả của bút pháp lãng mạ không chỉ dựng lên một thiên nhiên hiểm trở mà còn dựng lên kích thước, tư thế của người lính, một tư thế, kích thước sánh ngang tầm thiên nhiên.
Hai câu trước có sự phối hợp tuyệt vời của những thanh trắc. Dòng thơ tiếp theo như gãy đôi để vẽ ra hai chiều của dốc núi: một vút lên, một đổ xuống gần như thẳng đứng: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Cảnh được dựng bằng thủ pháp đối lập để khắc họa cái dữ dội, hùng vĩ của núi rừng. Những dốc núi cao tới chóng mặt, bên dưới là vực sâu thăm thẳm. Người lính như treo mình giữa vách đá, trên một sườn núi giữa chặng đường hành quân.
Ba câu trên thanh trắc chiếm ưu thế, câu thứ tư hoàn toàn thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đây cũng là một cách đối lập tạo ra sự tương phản giữa hai chặng đường hành quân: Vượt núi vất vả – dừng chân thoải mái. Câu thơ toàn thanh bằng với 6/7 tiếng là phù bình thanh cùng với hình ảnh những ngôi nhà ấm áp thấp thoáng ẩn hiện trong sương mù, mưa núi đã diễn tả trọn vẹn cái cảm giác thở phào nhẹ nhõm, thoải mái. Đúng là một dòng thơ bỗng “bay ngang lưng trời”.
Bút pháp lãng mạn vẫn được sử dụng để tô đậm vẻ hoang dại, dữ dội, đầy huyền bí, sự ghê gớm của rừng thiêng.
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Hai chi tiết tiêu biêu (thác gầm thét, cọp trêu người) gắn với hai thời điểm tiêu biểu (chiều chiều, đêm đêm), không phải một chiều, một đêm mà thời gian lặp lại mang tính liên tục, không gian như bị vây bọc bởi những âm thanh man dại. Câu thơ tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trong trí tưởng tượng của người đọc.
Cảm xúc lãng mạn được xây dựng trên nền cảm xúc kí ức. Đoạn thơ được viết ra như một dòng kí ức đứt, nối, mờ tỏ liên tục. Cho nên đan cài với những câu thơ tả cảnh dữ dội, hùng vĩ là những câu thơ mênh mang, chơi vơi. Hai câu cuối đoạn là một sự đầm ấm bất ngờ đến ngây ngất bởi tiếng gọi thiết tha vang lên tự đáy lòng (Nhớ ôi Tây Tiến), bởi hình ảnh gợi sự thanh thản, đầm ấm đến nao lòng (cơm lên khỏi, thơm nếp xôi). Hai câu thơ còn có giá trị chuyển cảnh, chuyển đoạn.
Nếu ở đoạn trên, bút pháp lãng mạn đã tô đậm vẻ hoang dại, hùng vĩ của thiên nhiên thì ở đoạn tiếp theo, cảm hứng lãng mạn lại gây ấn tượng mạnh về cái thơ mộng, tuyệt mĩ của núi rừng và con người Tây Bắc.
Đêm liên hoan văn nghệ có “ đuốc” có “hoa”, có tiếng khèn, điệu múa và nhất là có hình ảnh những thiếu nữ miền Tây Bắc trong trang phục dân tộc óng ánh sắc màu, hoa văn núi rừng. E ấp trong những điệu xòe duyên dáng. Tất cả như say, như mơ, như mê đế “hồn thơ” được “xây” lên từ đó.
Cảnh sông nước bộc lộ hồn thơ nhạy cảm, tinh tế và tài hoa của Quang Dũng. Làn sương chiều mỏng, dáng lau đơn sơ, phơ phất, dáng người trên độc mộc, dòng nước, hoa đong đưa tình tứ… Nhà thơ không tả mà chỉ gợi bằng những câu thơ thiên về cảm tính trực giác. Cái nhạt nhòa hư ảo càng được tăng lên bởi những từ ngữ gợi nhớ một nỗi nhớ mênh mang (chiều sương ấy, có thấy, có nhớ, người đi, hồn lau, bến bờ, dòng nước, đong dưa…). Tất cả cứ lung linh, khó nắm bắt. Chỉ có thể cam nhận bằng tâm hồn – một tâm hồn chứa tận cùng sâu thẳm là tình yêu và nỗí nhớ.
Mỗi đoạn thơ có một giá trị riêng. Song đặt hai đoạn thơ cạnh nhau, bút pháp lãng mạn càng được nổi bật bởi sự tương phản đôi lập. Nếu ở đoạn 1, cảnh được vẽ bằng những nét bút gân guốc, táo bạo, khỏe khoắn thì ở đoạn 2 cảnh lại được vẽ bởi những nét bút mềm mại, tinh tế. Hai nét vẽ đó dựng lên hoàn chỉnh bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, bí hiểm vừa thơ mộng, mĩ lệ. Đó chính là chất tài hoa trong ngòi bút Quang Trung.
Bút pháp lãng mạn tiếp tục được nhà thơ khai thác triệt để khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến. Thật ra không phải đến đây hình ảnh người lính mới hiện lên mà ở hai phần trên, hình ảnh người lính cứ thấp thoáng ẩn hiện: ở tư thế trèo đèo, lội suối, ở những phút dừng chân giữa chặng đường hành quân, ở “đêm hội đuốc hoa” và “Châu Mộc chiều sương ấy”… thậm chí có lúc hiện lên rât rõ:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Tuy nhiên, phải đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh người lính Tây Tiến mới hiện lên đầy đủ. Hai câu mở đoạn: “Tây Tiến đoàn bình không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ oai hùm” đã gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho “không mọc tóc” là do người lính cạo trọc đầu (người ta gọi là những anh “vệ trọc”) còn “xanh màu lá” là xanh màu lá ngụy trang. Đó là những người lính dũng cảm, can trường. Có người khác lại cho “không mọc tóc” là do sốt rét rụng hết tóc, còn “xanh màu lá” là màu da xanh như lá (do sốt rét). Tác giả muốn tô đậm những gian khổ, đói rét, ốm đau của người lính…
Nhà thơ Trần Lê Văn, một chiến sĩ Tây Tiến đã từng nói: “Đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều”. Chính Quang Dũng cũng có lần tâm sự: “Chúng tôi hành quân bằng đôi chân thực sự đã nếm mùi Tây Tiến. Chúng tôi mở rừng, ăn rừng, ngủ rừng”. Thiếu thốn, đói rét, ốm đau là một thực tế. Nhà thơ nói đến tất cả những điều đó nhưng ý thơ lại được nâng đỡ bởi bút pháp lãng mạn. Quang Dũng đã khắc họá chân dung người lính hết sức lẫm liệt, oai hùng. Tác giả dùng hai chữ “đoàn binh” mà không dùng “đoàn quân”. Cái “dữ oai hùm” khiến ta nhớ đến câu thơ hừng hực “hào khí Đông A” của Phạm Ngũ Lão: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”.
Nhà thơ không miêu tả một gương mặt riêng biệt mà dồn tất cả sự đối lập tạo nên một gương mặt chung khiến ta vừa cảm động, vừa cảm phục, vừa xót thương vừa tự hào. Hình ảnh thơ tuy có thiên về nét vẽ hình thể nhưng lại giúp người đọc thấy rõ hơn khi phách hào hùng của những chiến sĩ Tây Tiến – những anh “vệ trọc” nổi tiếng một thời.
Giữa hai câu trước và hai câu sau lại tạo nên một đối lập khác: đối lập với mắt trừng”, “oai hùm” là “mộng”, là “mơ”, đặc biệt là câu: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Thật hào hùng mà cũng thật hào hoa. Chiến tranh tàn khốc rất cần đến – những nét dữ dằn nhưng không thể giết chết những giấc mơ, không thể cướp đi những mộng đẹp. Đó là vẻ đẹp và đó cũng là sức mạnh.
Trước đây có người cho rằng người chiến sĩ Tây Tiến trong bài thơ chỉ có cái vẻ “yên hùng”, khí phách bên ngoài, còn bên trong yếu ớt, tiểu tư sản, mơ mộng viển vông. Nhưng người lính trong Đồng chí của Chính Hữu nhớ “giếng nước gốc đa”, nhớ “bạn thân cày”, nhớ “gian nhà không”… Người lính trong Nhớ của Hồng Nguyên nhớ đến cháy lòng người vợ trẻ “mòn chân bên cối gạo canh khuya”… thì người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng mơ về Hà Nội để nhớ một dáng hình con gái thì cũng là một điều dễ hiểu. Trong chiến tranh, nếu người lính không còn biết mơ, biết nhớ, không còn mảy may rung động trước một bông hoa đẹp hay sắc đẹp cùa một người con gái thì điều đó quả thật là vô cùng đáng sợ. Họ chiến đấu làm gì? Vì ai? Nếu không phải là để trả lại cho con người, cho dân tộc những giá trị nhân văn cao đẹp như vậy.
Bài thơ còn dựng lên hai tinh thần đối lập mà thống nhất: bi và hùng, tạo thành chất lãng mạn bi tráng, một khúc độc tấu mang âm hưởng tráng ca.
Tất cả những gian khổ thử thách, đói rét ốm đau mà nhà thơ đề cập đến trong suốt hai phần đầu bài thơ như một sự chuẩn bị tâm lí cho người đọc để đến khi tác giả nói về cái chết (phần 3) không gây nên cảm giác đột ngột. Tuy không đột ngột và mặc dù quá hiểu chiến tranh là thế – có thể ngã xuống bất cứ lúc nào, song đọc những câu thơ của Quang Dũng, chúng ta vẫn thấy một cảm giác chơi vơi khó gọi tên. Cũng chính những câu thơ ấy đã bất tử hóa cái chết, anh hùng hóa sự hi sinh để nâng đỡ cảm giác buồn đau, hẫng hụt, thành thử bi thương mà không bi lụy, bi ca chứ không phải khốc ca. Chính điều đó làm nên một khúc độc tấu bi tráng rền vang sông núi và lay động lòng người.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Mỗi người lính ngã xuống, những nấm mộ mọc lên. Những nấm mộ rải rác khắp biên cương là dấu tích của biết bao nỗi buồn thầm lặng. Nhà thơ nhìn xuyên suốt con đường hành quân của Tây Tiến mà lặng đi đến tê người khi trước mắt anh hiện lên những nấm mộ đồng chí, đồng đội.
Câu thơ sau nhanh chóng gạt đi những cảm giác bi thương giống như có một lực đẩy vô hình: “Chiến trường đi chẳng tiếc dời xanh!” Câu thơ vừa mang dáng dấp cuộc ra đi “nhất khứ hề” của Kinh Kha tráng sĩ vừa mang âm hướng của những cuộc ra đi trong thơ lãng mạn Việt Nam trước cách mạng với những “li khách” của Thâm Tâm, “khách chinh phu” của Thế Lữ.. Hơn nữa, các từ Hán – Việt: “biên cương”, “viễn xứ”, “chiến trường”, … có sức âm vang tạo nên tính cổ điển của hình tượng. Tuy nhiên, chất làng mạn của câu thơ Quang Dũng là chất lãng mạn cách mạng, lãng mạn anh hùng. Quang Dũng đã nói được một điều cốt lõi trong nhân cách người lính: biết hi sinh vẫn dấn thân, ra đi chẳng tiếc đời mình, tuổi thanh xuân đẹp nhất hiến dâng cho lí tưởng. Họ ngã xuống thanh thản, nhẹ nhàng thậm chí nụ cười vẫn nở trên môi. Quang Dũng đã gạt nước mắt để ngẩng cao đầu với niềm tự hào kiêu hãnh.
Hai câu tiếp theo cũng mang cảm hứng tương tự :
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Có người hiểu là lấy áo bào thay cho chiếu, có người lại hiểu là áo bào được thay bằng chiếu. Quang Dũng có lần tâm sự : ngay cả khi nằm xuống, người tử sĩ cũng không có đủ manh chiếu liệm. Nói “áo bào thay chiếu” là cách nói của người lính chúng tôi, cách nói ước lệ của thơ trước đây để an ủi những đồng chí của mình đã ngã xuống giữa rừng”. Thế là đã rõ. Không có chiến bào. Thậm chi không có cả chiếu liệm. Nhưng không thể để đau thương, buồn thảm quật ngã. Câu thơ độc đáo của Quang Dũng đã lãng mạn hóa cái chết, làm cho cái chết trở thành một sự ra đi nhẹ nhàng, thanh thản, ung dung với một vẻ đẹp hào hùng, oai phong và sang trọng. Giọng thơ như muốn hạ xuống cung bậc thấp nhất phù hợp với nỗi tiếc thương, nhưng hạ thấp để cuối cùng vút lên với cung bậc dữ dội và hùng tráng:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Những mất mát, đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả núi rừng của dòng sông Mã. Những người lính Tây Tiến hi sinh là trở về với thiên nhiên, trở về với đất mẹ và các anh lại hóa thân vào thiên nhiên để hát mãi khúc quân hành.
- Kết bài:
Tây Tiến có phảng phất nét buồn đau nhưng đó là nét buồn đau bi tráng. Nằm trong thi pháp chung của nền văn học 1945 – 1975, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lăng mạn, Tây Tiến đã để lại dấu ấn riêng độc đáo. Đó là sự phối hợp hài hòa giữa các mặt đối lập trong các hình tượng thơ. Tây Tiến còn là sự gửi gắm tất cả men say ước nguyện của Quang Dũng vào sự nghiệp cứu nước. Vì thế, Tây Tiến hấp dẫn người đọc bởi thế giới nghệ thuật của cái đẹp, cái cao cả hào hùng – sản phẩm của một bút pháp và cảm hứng lãng mạn
- Phân tích vẻ đẹp bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng
- Cảm nhận 14 câu thơ đầu bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng
- Lời thề thủy chung với Tây Tiến của người lính trong khổ cuối bài thơ “Tây Tiến”
- Cảm nhận vẻ đẹp bi tráng của người lính trong bài “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng
- Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến qua khổ thơ: “Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc… Sông Mã gầm lên khúc độc hành”