Cảm nhận vẻ đẹp phẩm chất nhân vật Lục Vân Tiên qua hành động đánh tan bọn cướp cứu Kiều Nguyệt Nga.
- Mở bài:
Truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Đình Chiểu. Qua việc xây dựng nhân vật Lục Vân Tiên cùng tuyến nhân vật chính diện, Nguyễn Đình Chiểu muốn lấy văn chương để tải đạo (văn dĩ tải đạo). Dưới ngòi bút của nhà thơ, nhân vật Lục Vân Tiên nổi lên như một người anh hùng đại diện cho sự chiến thắng của chính nghĩa. Phẩm chất anh hùng của Lục vân Tiên được khẳng định rõ ràng qua hành động đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga.
- Thân bài:
Khác với những tác giả khác, Nguyễn Đình Chiểu đã đặt trong mối quan hệ xã hội gây cấn, tình huống xung đột dữ dội của đời sống. Sau đó, bằng hành động, cử chỉ, lời nói của mình, nhân vật tự bộc lộ tính cách. Thêm vào đó, những lời lẽ nhận xét, ca ngợi hay phê phán của tác giả đã làm cho nhân vật trở nên ống động, để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. Có thể nhận rõ bút pháp ấy của Nguyễn Đình Chiểu qua cách xây dựng hình ảnh hai nhân vật qua đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.
Lục Vân Tiên là một truyện thơ Nôm, lại thêm tính chất tự truyện rất sâu sắc. Bởi thế, khi miêu tả nhân vật, tác giả ít chú ý đến việc khắc họa chân dung và cũng ít miêu tả nội tâm nhân vật. Như Lục Vân Tiên trong tác phẩm chỉ được giới thiệu là “con hiền”, “tuổi vừa đôi tám”. Tài năng thì “văn đã khởi phụng đằng giao. Võ thêm ba lược sáu theo ai bì”.
Lục Vân Tiên vốn là một chàng trai trẻ tuổi, lòng đầy khát vọng và phơi phới niềm tin tưởng. Sau một thời gian miệt mài học tập, chàng từ biệt thầy, rời núi trở về nhà thăm viếng cha mẹ để lên kinh ứng thí, thực hiện khát vọng công danh của người làm trai. Lòng chàng trai hăm hở trên con đường tìm kiếm công danh với một quyết tâm lớn: “Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa”.
Mục đích công danh của Lục Vân Tiên không chỉ là để xứng mặt anh tài mà còn đem sức giúp đời, giúp nước. Và trên bước đường trở về, chí khí ấy lập tức được thử thách. Trước mắt chàng, một vụ hỗn độn với những con người đầy sợ hãi đang nháo nhác tìm đường lẩn trốn. Hỏi ra mới biết, phía trước kia có một bọn cướp hung tợn đang ức hiếp, cướp bóc dân lành. Nghe chuyện, Vân Tiên liền bừng bừng nổi giận:
“Tôi xin ra sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”.
Lời nói khảng khái, thể hiện nghĩa khí của người anh hùng: thấy chuyện bất bình ra tay tương trợ. Đó không phải là dũng khí nhất thời của kẻ nông nổi mà là khí chất của người anh hùng quả cảm đích thực. Vân Tiên tu luyện võ nghệ đã nhiều năm, tài nghệ hơn người nào sợ chi bọn cướp dẫu chúng có đông người và hung tợn.
Nói là làm. Dù không vũ khí trong tay, chàng: “bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”, uy dũng phi thường, thanh thế lừng lẫy: “Người đều sợ nó có tài khôn dương”. Đây là lần đầu tiên, Lục Vân Tiên thực thi đạo lí. Chàng đại diện cho chính nghĩa, lẽ phải ở đời mà ra tay hành động. Xuất phát từ tư tưởng này, chàng tuyên bố lập trường của mình và kêu gọi bọn cướp dừng tay, hối lỗi. Nghĩa là chàng cho chúng một cơ hội:
“Kêu rằng bớ đảng hung đồ.
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.
Đó là phẩm chất của người anh hùng quang minh, chính trực, hành động có mục đích, có chính nghĩa đúng với đạo lí ở đời. Lời của chàng khẳng định hành động của bọn cướp là phi nghĩa, trái với luân lí ở đời, đồng thời khẳng định lập trường chính nghĩa cho hành động ra tay cứu người của mình. Đó vừa là lời kêu gọi đầu hàng vừa cảnh tỉnh bọn cướp hạ giáo quy hàng để khỏi thiệt thân. Đó cũng là cách ứng xử của người anh hùng xưa nay luôn hành động vì nghĩa, có lập trường, có chính nghĩa, đại diện cho công lí, sự công bình ở đời.
Trước lời cảnh tỉnh của Lục vân Tiên, bọn cướp vẫn không những không thay đổi ý định mà còn buông lời thách thức, đe dọa. Lấy đông hiếp yếu, khinh thường Vân Tiên đơn độc, yêu thế nên lập tức truyền quyên bốn phía phủ vây bịt bùng. Không một chút do dự, Vân Tiên “tả đột hữu xông” vô cùng dũng mãnh. Như Nguyễn Đình Chiểu nhận xét: “Khác nào triệu Tử phá vòng Đương Dang” năm nào.
Mặc dù tác giả miêu tả đơn sơ nhưng ta có thể hình dung đó là một trận chiến vô cùng ác liệt. Vân Tiên một mình tung phá giữa vòng vây của mấy mươi tên cướp không thể nào nhanh chóng hạ gục được chúng. Cách rút gọn của Nguyễn Đình Chiểu lại đưa ta đến một viễn cảnh khác: thoáng một cái, Lục Vân Tiên đã khiến cho: “Lâu la bốn phía vỡ tan. Đều quăng gươm giáo tìm làng chạy ngay”. Không những thế, tướng cướp Phong Lai, một kẻ giang hồ sừng sỏ, lợi hại vô cùng mà cũng: “Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”.
Cái hay của tác giả khi lược bỏ tiểu tiết để khẳng định một điều vốn ở Lục Vân Tiên. Đó là tài năng võ nghệ đạt đến mức phi thường. Chỉ một vài đường thế là chàng có thể phá tan quân cướp, khiến chúng thất trận trong gang tất. Điều này, trong nhan gian hiếm người là được.
Nguyễn Đình Chiểu đã không hề ngợi ca quá mức nhân vật Lục Vân Tiên. Ông cũng không hề tô đậm nhân vật một cách chủ quan, khiên cưỡng và đơn điệu. Bằng lối miêu tả ngắn gọn, sự tường thuật khách quan, trung thực trong một cấu trúc hợp lí, tác giả để người đọc tự nhận ra các giá trị ở nhân vật. Đó là một thủ thuật xây dựng nhân vật hết sức sắc xảo ở Nguyễn Đình Chiểu mà ít ai phát hiện được ra. Bởi thế mà, nhân vật lục Vân Tiên tự nhiên đi vào lòng người mà không gặp bất cứ một trở ngại nào. Chàng là đại diện sinh động, chân thực và gần gũi phẩm chất và khát vọng của người dân bình thường trong một thời đại đầy biến cố.
Bên cạnh đó, Lục Vân Tiên còn thể hiện phẩm chất cao quý của một người quân tử liêm khiết, chính trực qua cuộc trò chuyện giữa chàng và hai cô gái chàng vừa cứu giúp. Người chàng vừa ra tay cứu nguy đó chính là Kiều Nguyệt Nga, con của vị quan phủ. Nguyệt Nga là người con gái đức hạnh và kiều diễm vô cùng. Cảm phục ân đức của lục Vân Tiên, nàng ngỏ lời đền ơn nghĩa ấy. Trước mong muốn đền đáp công ơn và xin được diện kiến của Kiều Nguyệt Nga, Vân Tiên đã căn ngăn:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra.
Nàng là phận gái, ta là phận trai”.
Cái “khoan khoan” của Lục Vân Tiên khiến cho ta thêm yêu, thêm quý. Có lẽ chàng lúng túng khi lần đầu tiên giáp mặt một cô gái. Ẩn sau thái độ đường hoàng kia là một lí tưởng lớn lao, một phẩm chát cao đẹp. Trước một nhan sắc mấy ai không động lòng. Lục Vân Tiên dẫu đã tiếp thụ được đạo học nhưng trước hết chàng là một người trai với trái tim đầy rung động. Và để chống lại những cảm xúc ấy, chàng lấy cái lễ nghi ra làm nguyên tắc chống đỡ.
Cái “khoan khoan” ấy cũng thể hiện sự tôn trọng Nguyệt Nga và sự tuân phục nghiêm ngặt lễ giáo truyền thống: “Nam nữ thụ thụ bất thân”. Cách ứng xử vừa khoan lượng vừa đúng với đạo đức người quân tử. Ở sự miêu tả này, Nguyễn Đình Chiểu tỏ ra vững vàng hơn cả.
Đến hành động Lục vân Tiên khướt từ sự trả ơn của Kiều Nguyệt Nga lại làm cho ta càng thêm cảm phục. Với vị thế con gái của đại quan, Kiều Nguyệt Nga có đầy đủ cơ sở để trả ơn hậu hĩnh công cứu nguy của Lục Vân Tiên. Sự trả ơn ấy có thể giúp gia đình chàng khấm khá lên nhiều lần. Sự trả ơn ấy cũng hoàn toàn phù hợp với đạo nghĩa, không có gì là sai trái. Thế nhưng, Lục Vân Tiên đã khảng khái khướt từ: “Làm ơn há để trong người trả ơn”
Cái đức của người quân tử là trọng nghĩa khinh tài, không vì cao sang quyền quý mà nhận lấy sự đền trả vật chất, bán rẻ danh dự. Cái nguyên lí của người anh hùng dưới trời đất đó là: “Kiến nghĩa bất vi vô dũng giả. Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”. Ở Lục Vân tiên hội tụ cả hai thiên đức ấy thì làm sao chàng có thể nghe theo lời mời của Kiều Nguyệt Nga cho được. Từ chối mọi thứ, kể cả chiếc trâm cài mà Kiều Nguyệt Nga mong muốn gửi tặng để ghi nhớ. Vân Tiên hiểu ẩn ý ở trong nó, thế nên, chàng chỉ muốn họa cùng nàng một bài thơ rồi thanh thản bước đi, không hề vương vấn gì.
Thế mới thấy, Lục Vân Tiên chính là con người của nhân dân, mang phẩm chất và hành động của nhân dân. Đó là coi trọng tình nghĩa giữa người với người, đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy, đồng thời thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong cuốc đời thông qua kết thúc có hậu của tác phẩm là thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà. Dù không được tác giả lí tưởng hóa cao độ, nhưng Lục Vân Tiên cũng vương lên tầm vĩ đại. Chàng chính là đại diện cho ước vọng công bình ở trên đời này.
- Kết bài:
Qua đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyện Nga, nhân vật Lục Vân Tiên hiện lên với lí tưởng cao cả, phẩm chất tốt đẹp, xứng đáng là hình mẫu của người làm trai trong xã hội phong kiến. Lấy cuộc đời làm điểm tựa, lấy việc nhân nghĩa làm mục tiêu hành động, nhân vật Lục Vân Tiên sáng rự như ánh sao trên bầu trời đen tối của thế kỉ 19. Nói như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Phải hiểu đúng Lục Vân Tiên thì mới thấy hết giá trị của bản trường ca này. Đúng, đây là một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa!
Bài tham khảo:
- Mở bài:
“Sự đời thà khuất đôi trong thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gương”
(Nguyễn Đình Chiểu)
Sống trong xã hội đảo điên, loạn ly, tình người bạc bẽo, cuộc đời nhà chí sĩ Nguyễn Đình Chiểu dù gặp nhiều khổ đau, nghiệt ngã, vẫn suốt đời phấn đấu và thực hiện được lý tưởng nhân nghĩa mà ông hằng theo đuổi. Lý tưởng đó đã được tác giả kí thác trong tác phẩm “Lục Vân Tiên” – một truyện Nôm mang được nhân dân ta yêu thích trong bao năm qua.
- Thân bài:
Tác phẩm là một thiên tự truyện độc đáo. Đọc tác phẩm,ta thấy có nhiều chi tiết gắn kết giữa cuộc đời đồ Chiểu và nhân vật Lục Vân Tiên hết sức sâu sắc. Nhưng Nguyễn Đình Chiểu không được như Lục Vân Tiên: nhờ phép màu mà làm sáng lại mắt để rồi sau đó lại tiếp tục đi thi đỗ Trạng nguyên, được vua cử đi dẹp giặc Ô Qua thắng lợi, đạt được danh vọng và cuộc sống hạnh phúc.
Những gì chưa làm được trong cuộc đời mình, Nguyễn Đình Chiểu kí thác vào nhân vật Lục Vân Tiên. Cho nên, Lục Vân Tiên cũng là nhân vật lí tưởng của Đồ Chiểu, là nơi nhà thơ gửi gắm ước mơ và khát vọng kinh bang tế thế, mang lại nhiều điều hữu ích cho nhân đan trong cuộc đời của mình.
Xuất thân là một sĩ tử, Lục Vân Tiên không những phong nhã mà còn là người tài năng, rất có triển vọng khoa bảng. Chàng có đầy đủ những phẩm chất cao đẹp của một người quân tử mà xã hội phong kiến cần có. Vượt lên trên chuẩn mực ấy, Lục Vân Tiên còn là một đấng trượng phu hào hiệp, trượng nghĩa, khí chất phi thường.
Nghĩa khí anh hùng cao đẹp của Lục Vân Tiên được thể hiện nhất quán trong toàn bộ tác phẩm. Lần đầu tiên, phẩm chất áy được thẻ hiện mạnh mẽ trong làn Lục Vân Tiên đánh cướp cứu người.
Sau khi từ giã thầy học của mình, Lục Vân Tiên trở về viếng thăm cha mẹ để chuẩn bị lên kinh đô ứng thí. Tâm hồn người thanh niên ấy phơi phới niềm tin và ước vọng. Đột nhiên, giữa đường gặp người dân chạy loạn do bọn cướp gây nên. Chàng đã hỏi qua sự tình và hết sức bất bình, nguyện “Cứu người dân cho khởi lao đao đợt này”…
Việc thi cử trong xã hội phong kiến là một việc hệ trọng đối với kẻ sĩ. Bao năm đèn sách cũng chỉ để mong ngày được lên kinh ứng thí. Trong hoàn cảnh bất thường đó, người ta thường dễ né trách mọi nguy hiểm để giữ toàn tính mạng. Việc xảy ra giữa đường, những người dân chạy cướp kia đều không hề liên quan tới chàng. Thế nhưng Lục Vân Tiên đã không suy nghĩ theo kiểu thường tình đó, thấy người bị nạn chàng đã tìm cách cứu giúp bằng cách “bẻ cây” làm vũ khí và xông vào đánh bọn cướp:
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”.
Trước bon cướp hung bạo, lại có đầy đủ binh khí, sẵn sàng tướt đoạt mạng sống của người khác, Vân Tiên không hề run sợ. Chàng ghé lại bên đàng bẻ cây làm vũ khí chiến đấu. Tư thế chủ động, hiên ngang vô cùng hùng dũng. Trước hiểm nguy, lòng chàng vững như sắt đá, chỉ nghĩ đến việc cứu người, không màng đến bản thân. Đó là hành động nghĩa hiệp của một con người luôn sống vì mọi người, sống vì chính nghĩa. Tính cách nghĩa hiệp không chỉ thể hiện ở hành động mà còn đọng lại trong lời kết tội bọn cướp hung tàn:
“Kêu rằng: bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Chàng coi bon cướp là kẻ hùng đồ, làm điều ngang ngược, trái với đạo lí. Hành động của chúng là vô nhân đạo, phi nghĩa lí, đáng bị trừng trị. Không hề vội vã, chàng dùng lời nói đẻ thức tỉnh lương tri, ngăn việc tàn ác, cho bọn cướp một cơ hội để thoát thân.
Đó là hành động của kẻ anh hùng, trước khi ra tay trừng phạt luôn cho kẻ ác một cơ hội để phục thiện. Hành động cao đẹp ấy xuất phát từ lòng yêu thương người dân lương thiện, vô tội và cũng vì họ mà chàng sẵn sàng bất chấp hiểm nguy, hào hiệp cản ngăn những hành động “hồ đồ hại dân” của lũ côn đồ hung bạo kia. Thế nhưng, bọn cướp vẫn ngông cuồng, cố chấp, quyết không buông bỏ.
Với người tài trí như Lục Vân Tiên, chàng nhận rất rõ mối nguy hai to lớn khi một mình đối đầu với bọn cướp hung bạo đông người. Chàng không hề nao núng. Trước khi lao vào cuộc chiến, Lục Vân Tiên tuyên bố lập trường chính nghĩa và quyết ra tay trừng trị bọn tham tàn. Hành động đánh cướp cứu người cho thấy Lục Vân Tiên không những là một sĩ tử biết chăm lo đèn sách mà còn là người võ nghệ cao cường, hết sức tin tưởng vào bản thân và khả năng chiến thắng bọn hung đồ.
Vân Tiên là một người có tài thao lược hơn người, tinh thần dũng cảm, can trường, gan dạ. Mặc dù chàng chỉ có một thân một mình, vũ khí là một cây gậy còn bộn cướp thì đông đảo: “Lâu la bốn phía bổ vây bịt bùng”, sẵn sàng gươm giáo và thật hung hãn.
Được sự cổ vũ lý tưởng nhân nghĩa và tài năng võ nghệ cao cường, Vân Tiên đã làm cho bọn lâu la phải “quăng gươm giáo”, tan tác tìm đường tháo chạy còn tên tướng cướp Phong Lai phải bỏ mạng. Chàng thư sinh họ Lục hoàn toàn làm chủ trên chiến trường như đi vào chỗ không người.
Không tả tỉ mỉ trận chiến, chỉ bằng mấy dòng thơ ngắn gọn mà đặc sắc cùng nghệ thuật so sánh, tác giả đã làm nổi bật một dũng tướng đánh nhanh, kín võ, sánh ngang Triệu Tử Long thời Tam Quốc trong trận phá vòng vây quân Tào bảo vệ ấu chúa. Miêu tả trận thư hùng hỗn chiến ác liệt ấy, tâm hồn Nguyễn Đình Chiểu như cũng rộn rã vui mừng.
Lời thơ chân chất, mộc mạc song hồn thơ thì chan chứa dạt dào. Nó nêu bật một chân lý: kẻ bất nhân độc ác thì thảm bại, người anh hùng làm việc nghĩa tất yếu sẽ chiến thắng. Vân Tiên đã chiến thắng bởi sức mạnh của nhân nghĩa, của lẽ phải, sức mạnh của tình yêu thương và lòng dũng cảm kiên cường. Chàng chính là hiện thân của người anh hùng thượng võ, sẵn sàng cứu khốn phò nguy, dám bênh vực kẻ yếu, tiêu diệt mọi thế lực bạo tàn.
Tính cách của Lục Vân Tiên còn được bộc lộ qua việc giao tiếp với những nạn nhân vừa được chàng cứu sống. Cách cư xử của Lục Vân Tiên với Kiều Nguyệt Nga sau khi đánh cướp bộc lộ tư cách con người chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài cũng rất từ tâm nhân hậu. Chàng đã ân cần thăm hỏi những người bị nạn và thật sự xúc động khi nghe Kiều Nguyệt Nga trần tình. Thấy hai cô gái còn chưa hết sợ hãi, Vân Tiên “động lòng” thương xót,ân cần hỏi han, an ủi họ. Đó chính là biểu hiện của tấm lòng nhân hậu của một con người vì chính nghĩa mà hành động, xem thường lợi danh:
“Vân Tiên nghe nói động lòng
Đáp rằng: Ta đã trừ dòng lâu la”
Không chỉ thực hiện được hai chữ “nghĩa, nhân” mà Vân Tiên còn biết giữ cho mình chữ “lễ” theo đúng quan niệm Nho gia xưa kia. Đó là hành vi đúng đắn của một người hào hiệp, quen sống vô tư, làm việc nghĩa theo bản lĩnh của mình. Một nụ cười tốt bụng, đôn hậu, rất đặc trưng cho người trai Nam Bộ nói như nhà thơ Xuân Diệu: “Cái cười đáng yêu, đáng kính sao! Một là cái cười của anh hùng quân tử, hai là cái cười của anh con trai, ba là cái cười của quần chúng rộng lượng đều ở trên môi Vân Tiên”.
Hơn nữa thấy nghĩa là phải ra tay đó là nghĩa vụ của kẻ làm trai, là thước đo phẩm chất của một người anh hùng theo quan niệm của Vân Tiên mà cũng chính là quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu và nhân dân ta: “Kiến nghĩa bất vi vô dũng giả, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”:
“Nhớ câu khiên ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
Trong lời nói hào hiệp đó, ta nghe như tiếng Từ Hải (Truyện Kiều – Nguyễn Du) vang vang giữa đất trời lộng gió năm nào:
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”.
Cũng chính vì không tham danh lợi, không nghĩ đến sự đền đáp của Lục Vân Tiên khiến cho Kiều Nguyệt Nga càng thêm yêu kính và nguyện gắn kết hết cuộc đời.
Với một chiếc gậy bên đường mà một mình dám xông vào một lũ lâu la quen nghề gươm giáo. Việc làm ấy thật nguy hiểm mà vẫn thản nhiên như không. Đồng thời, chỉ đánh đổi bằng một nụ cười nhẹ nhàng, đáng yêu. Hành động, tâm tình, tư tưởng của Vân Tiên là bóng dáng cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu.
Đó còn là suy nghĩ và hành động vì nghĩa của cả tập thể những con người biết sống đẹp mà tác giã đã tái hiện trong tác phẩm: Một ông Ngư “Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”. Một Hớn Minh nghĩa hiệp… Có thể nói Nguyễn Đình Chiểu đã đưa vào trận “Cả một đạo quân bừng bừng khí thế quyên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu và chiến thắng” (Hoài Thanh).
Hành động nghĩa hiệp ấy thật đẹp. Nó không cao xa và khác biệt với hành động “Vá trời lấp bể” của một trang nam nhi theo quan niệm của Nguyễn Công Trứ… Lý tưởng sống của cụ Đồ Chiều rất gần với lý tưởng anh hùng của thời đại chúng ta…
Nguyễn Đình Chiểu đã không quá cầu kì trong vận dụng ngôn ngữ hay sử dụng các điển tích, điển cố cho thiên truyện này. Ngôn ngữ kể chuyện bình dị, mộc mạc gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày,đậm màu sắc Nam Bộ.Tuy là ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên, ít trau chuốt, uyển chuyển nhưng lại dễ đi sâu vào tâm hồn quần chúng nhân dân.
- Kết bài:
Qua việc vận dụng nghệ thuật xây dựng tính cách nhận vật theo thủ pháp quen thuộc của chuyện cổ dân gian, để cho nhân vật trực tiếp bộc lộ phẩm chất, tính cách bằng hành động cụ thể, hết sức tự nhiên, đoạn trích đã làm ngời lên nhân vật trung tâm của chuyện: một con người có bản tính nhân nghĩa hào hiệp giàu lòng thương người, hiện thân của cái thiện chống cái ác… Đọc đoạn trích, ta càng hiểu hơn lý tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Đình Chiểu đã trọn đời dâng hiến, hiểu rõ hơn tài năng và tấm lòng một nhà thơ dù “đôi mắt đã lòa mà tấm lòng của ông vằng vặt như sao Bắc Đẩu” (Bảo Định Giang).
Bài tham khảo:
- Mở bài:
Truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên được coi là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong cuộc đời sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Có thể nói, nổi bật nhất trong tác phẩm là vẻ đẹp hình tượng nhân vật Lục Vân Tiên chàng trai hào hiệp, dũng võ, võ nghệ phi thường, sẵn sàng liều thân mình để cứu giúp người trong cơn nguy khó. Qua đó, tác giả ca ngợi, khẳng định và tôn vinh những con người hào hiệp, nhân nghĩa, thủy chung, nết na đức hạnh, sống đúng với chuẩn mực đạo lý tốt đẹp của con người.
- Thân bài:
Lục Vân Tiên là người hào hiệp, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh mình vì người khác, vị nghĩa vong thân.
Cũng như bao đấng nam nhi khác, Lục Vân Tiên cũng ôm khát vọng công danh, đem tài trí giúp ích cho đời, chàng ngày đem chăm lo học tập, rèn luyện võ nghệ cùng thầy ở trên núi. Năm ấy, triều đình mở khoa thi, cũng là lúc, Lục vân Tiên văn đã thông thạo, võ đã hơn người, chàng từ biệt thầy xuống núi, lên kinh ứng thí. Trên đường lên kinh, chàng bắt gặp cảnh người dân lao đao khốn đốn, hốt hoảng bỏ chạy vào rừng sâu vì bọn cướp ngang tàn, bạo ngược, chàng vô cùng tức giận, quyết ra tay giúp dân trừ bạo, diệt lũ tham tàn:
Vân Tiên ghé lại bên đường
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.
Đối với Lục Vân Tiên cứu người trong luc lâm nguy không những là việc nên làm mà còn là bổn phận của đấng trượng phu thấy chuyện bất bình ra tay tương trợ. Đối diện với bọn cướp vừa đông đảo, khí thế hung bạo lại vũ khí sắc bén, Vân Tiên đã biết tự trang bị cho mình vũ khí, dù đó là vũ khí tầm thường. Cứ thế, chàng nhằm thẳng bọn cướp mà xông vào, chẳng hề sợ hãi.
Không những thế, chàng còn khẳng định lập trường chính nghĩa của mình, chỉ thẳng vào mặt bọn chúng mà trách tội:
“Kêu rằng bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Trong mắt chàng, bọn giặc cướp Phong Lai chỉ là những kẻ hung đồ ngang ngược, ỷ thế làm càn, bức hại người dân vô tội. Hành động ấy trái với đạo lí, trời không dung, đất không tha. Phen này chàng quyết ra tay tương trợ, trừ gian diệt bạo để bảo toàn công lý, chính nghĩa, cứu giúp muôn dân.
Nghe chàng nói lớn, tướng cướp Phong Lai “mặt đỏ phừng phừng” vô cùng tức giận, nhìn chàng ra vẻ dữ tợn:
“Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây
Trước gây việc dữ tại mày”
Sau đó ngay lập tức: Truyền quân lệnh xuống phủ vây bịt bùng. Trong hoàn cảnh ấy, Vân Tiên dẫu một thân một mình, tay không tấc sắt, chỉ có cây gậy vũ khí độc nhất trong tay mà vẫn không hề nao núng sợ hãi. Chàng xông thẳng vào vòng vây của mấy mươi tên cướp, thanh thế lẫy lừng, giáo gươm nhọn hoắt. Chàng tung hoành ngang dọc, tả đột hữu xông như chốn không người. Chỉ thoáng chốc, chàng đã đánh cho bọn chúng đến thất điên bát đảo, hoang mang tìm đường bỏ chạy:
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Ngay cả tên cướp đầu não là Phong Lai cũng trở chẳng kịp tay, bị Vân Tiên đánh đến trọng thương, sống dở, chết dở.
Hình ảnh của chàng lúc ấy thật oai phong lẫm liệt biết bao. Chàng chẳng khác nào Triệu Tử Long, người anh hùng dũng tướng thời Tam quốc ngày xưa, một thân một mình phá được vòng vây của hàng ngàn quân giặc. Nhưng khác với Triệu Tử Long, Lục Vân Tiên liều thân mình không phải để báo đền ơn chủ tướng, giữ vẹn nghĩa vua tôi mà là để cứu giúp người trong cơn nguy khó mà là để cứu người trong lúc lâm nguy. Đối với chàng, những người gặp nạn kia hoàn toàn là một người xa lạ. Nhưng chàng vẫn không tính toán thiệt hơn, thấy việc nghĩa giữa đường đành ra tay tương trợ. Đó cũng là lý tưởng và nghĩa khí của người anh hùng xưa nay.
Hành động đánh cướp cứu người của Lục Vân Tiên thật cao đẹp và đáng ca ngợi. Nó chứng tỏ chàng là người anh hùng dũng cảm, võ nghệ phi thường, ít ai sánh kịp. Có thể nói, bằng hình ảnh so sánh, liệt kê, kết hợp với những từ ngữ tuy vô cùng giản dị nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa thành công hình ảnh Lục Vân Tiên một con người hào hiệp, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh mình vì người khác, vị nghĩa vong thân. Lục Vân Tiên là hình ảnh mẫu mực, tượng trưng cho hình ảnh người anh hùng, đấng trượng phu thuở trước thấy việc nghĩa đều ra tay tương trợ, không quản ngại thân mình.
Không những dũng cảm, gan dạ, nghĩa hiệp phi thường, Lục Vân Tiền còn là người trọng nghĩa khinh tài, làm ơn không cần báo đáp.
Nét đẹp của người trai thời loạn anh hùng, quả cảm, cứu giúp người trong cơn nguy khó không chỉ dừng lại ở đó. Hành động và thái độ của chàng đối với Kiều Nguyệt Nga sau khi cứu giúp nàng thoát khỏi bọn cướp Phong Lai càng đáng để cho ta khâm phục. Nó chứng tỏ chàng là người trọng nghĩa khinh tài, làm ơn không cần báo đáp, độ lượng khoan dung, nhân từ phúc hậu.
Biết hai người con gái bất hạnh ấy hãy còn hoang mang, lo sợ sau cơn tai biến dập dồn, chàng vội vàng tìm lời an ủi khuyên lơn: “…rằng ta đã trừ dòng lâu la”. Hành động chàng ngăn hai cô gái xuống kiệu tạ ơn “Khoan khoan hãy ngồi đó chớ ra/ Nàng là phận gái, ta là phận trai” càng thể hiện chàng là người gia giáo, có tư cách đứng đắn, biết giữ gìn lễ nghĩa. Và khi Nguyệt Nga có ý muốn tạ ơn chàng đã ra tay cứu mạng, giúp nàng bảo toàn tiết hạnh sạch trong, khẩn khoản mời chàng về nhà mình để cha già tiện bề đáp trả thì Vân Tiên một mực từ chối. Vì chàng cho rằng:
Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Nay đà rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ây, cũng phi anh hùng
Đối với chàng, ra tay tương trợ người trong cảnh thế cô sức yếu là hành động nên làm, là bổn phận, trách nhiệm cảu kẻ làm trai, đấng trượng phu “đầu đội trời, chân đạp đất”, chẳng phải là ơn nghĩa cao sâu để người đáp trả. Đó chính là lí tưởng sống cao đẹp, là kim chỉ nam hành động của một con người, một tầng lớp người anh hùng trong xã hội ngày trước. Đó còn là nét đẹp trong đời sống của người dân Nam Bộ và của cả dân tộc ta mà tác giả muốn gởi gắm qua hình tượng nhân vật Lục Vân Tiên.
Bằng những từ ngữ hình ảnh thơ mộc mạc, bình dị, qua nhân vật Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã gởi gắm ước mơ, khát vọng, lí tưởng sống cao đẹp của mình về hình ảnh con trai thời loạn, dũng cảm, hiên ngang, tài ba lỗi lạc, nguyện đem tài trí của mình cứu khốn phò nguy, diệt lũ tham tàn, giúp vua bình định sơn hà xã tắc. Do đó dẫu lời văn đôi chỗ còn thô sơ, mộc mạc không mượt mà sâu lắng như Truyện Kiều nhưng hàng trăm năm nay, người dân Nam Bộ vẫn thích ngâm nga Lục Vân Tiên vì ẩn chứa đằng sau những lời lẽ mộc mạc ấy là nét đẹp tỏa ra từ tâm hồn. Từ nhân cách cao cả của một nhà thơ mù giàu lòng yêu thương dân, suốt cuộc đời dùng văn chương của mình để gìn giữ nền tảng chân lí cha ông, kêu gọi con người quay trở về với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, sống nhân nghĩa thủy chung:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trao mình
Hay:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng
- Kết bài:
Qua việc vận dụng nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật theo thủ pháp quen thuộc của truyện cổ dân gian, để cho nhân vật trực tiếp bộc lộ bản chất, tính cách bằng hành động cụ thể, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa thành công vẻ đẹp hình tượng Lục Vân Tiên. Đó là người anh hùng thời loạn, dũng cảm hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, sẵn sàng liều thân mình cứu giúp người trong cơn nguy khó. Lục Vân Tiên mãi là nhân vật tượng trưng cho những phẩm chất tốt đẹp của người dân Nam Bộ và gởi gắm trong đó là biết bao hoài bão mong ước của Nguyễn Đình Chiểu về người anh hùng tài năng đức độ có thể cứu dân cứu nước.