Phân tích tấn bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ trong “Đời thừa” của Nam Cao
- Mở bài:
Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn nhất của nền văn học Việt Nam trước 1945. Ông đi sâu vào khai thác hai đề tài chính: sự tha hóa của người nông dân và bi kịch của người tri thức nghèo trong xã hội cũ. Đời thừa là truyện ngắn xuất sắc của ông về đề tài trí thức. Qua việc miêu tả tấn bi kịch tinh thần của Hộ (bi kịch trong sự nghiệp: vỡ mộng; bi kịch trong gia đình: bi kịch tình thương) trong tác phẩm “Đời thừa”, Nam Cao đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ.
- Thân bài:
Phát hiện và miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần đau đớn của Hộ, Nam Cao đã tố cáo cái xã hội đầy đọa con người trong sự nghèo đói, vùi dập những ước mơ, làm chết mòn đời sống tinh thần và sự sống cao đẹp của con người. Kết thúc truyện ngắn “Đời thừa”, Nam Cao đưa người dọc hướng theo lười ru của Từ:
“Ai làm cho khói lên giờ,
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li
Ai làm cho Nam, Bắc phân kì
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân”.
Không biết rằng trên cõi đời này, ai đã đọc và tự đặt câu hỏi tác giả của bốn câu trên là ai và họ viết làm gì. Không biết rằng trên cõi đời này, ai hay cái gì đã khiến cho ai đó phải thốt lên não nề như kia. Không biết và không biết. Chắc có lẽ Nam Cao cũng thế. Phải chăng ông cũng chẳng hay biết gì đến lời than với thân, than với trời của Từ, bởi khi kết thúc truyện ngắn “Đời thừa”, ông lại bỏ lửng câu hát ru của Từ. Dường như câu hát ra này là dấu chấm hỏi mà Nam Cao vô tình hay cố tình đặt vào cuộc đời Từ. Nhưng không, cái dấu chấm hỏi mà Nam Cao đặt vô tình hay cố tình lại là cái dấu chấm than mà ông, dương như đã có tính trước, đặt vào cuộc đời chồng của Từ – văn sĩ Hộ. Ông chấm than cho cái tài của Hộ, cho cái lương tâm nghề nghiệp, cho cái đẹp trong con mắt Hộ.
Dấu chấm than như một cung điệu cao vút đang rung nhịp giữa đời Hộ, giữa cái xã hội thực dân nửa phong kiến này. Không biết rằng trên cõi đời này, có ai đã từng hỏi sao Nam Cao lại chấm dấu chấm than kia đẹp đến thế kia? Không biết và không biết. Phải chăng chỉ còn mỗi Nam Cao mới biết ông đang làm gì. Ông cứ chấm than dài mãi để rồi kết thúc bằng dấu chấm hết cho cuộc đời Hộ. Hộ bế tắc, túng quẫn và cuộc đời của văn sĩ này bắt đầu “khốn nạn”, lắm những đau thương.
Con người Hộ, dưới ngòi bút của Nam Cao, là một người có tài trong việc “ngòi bút thơ”. Quả thế, Hộ “là một nhà văn”. Và anh muốn qua ngòi bút của mình để có thể mang đến tình thương, tình yêu của một con người cho tha nhân. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ có bao nhiêu người như Hộ, nhất là vào cái thời mà phong kiến, thực dân chia để trị này? Quá lớn lao, quá cao cả, quá con người! Nhưng Nam Cao lại đẩy anh vào một tình huống mà đến trời cũng có thể khó giải quyết được. Cuộc đời của “gã trẻ tuổi say mê lí tưởng” “vốn nghèo” nãy đã gặp được Từ.
Hoàn cảnh đưa đẩy đã khiến cho Hộ và Từ nên vợ nên chồng. Hộ lấy Từ vì Hộ thương cho hoàn cảnh của Từ và anh muốn sống để nuôi Từ. Nhưng có lẽ chính vì lòng thương người của Hộ đã đẩy anh vào cuộc sống “áo cơm ghì sát đất”. Nó đã phản bội anh. Lòng thương người của Hộ đã bắt anh phải hận đời, hận người. Hộ đã nghèo, nay còn khốn khổ hơn. Khi còn một thân một mình, cái nghề viết lách là nguồn thu nhập chủ yếu của Hộ và có thể chỉ nuôi được mỗi mình anh. Thế mà bây giờ đây, cái nghề viết lách kia phải gánh thêm cái nợ vợ con Hộ trên vai. Văn sĩ này phải viết “vội vàng” những tác phẩm “nhạt nhẽo”, “một vài ý rất thông thường quấy loãng trong thứ văn bằng phẩng và quá ư dễ dãi”. Anh là một nhà văn yêu nghề, lương tâm nghề nghiệp đúng đắn mà bây giờ đây lại phải “dối trá”, “bất lương” như một kẻ hèn nhát, “tiểu nhân thị oai”. Quả thế, Hộ quan niệm “sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”.
Không chỉ riêng hộ, mà mỗi người trên thế giới này, nếu là con người thì họ đều sống theo quan niệm của mình. Thế mà cái số phần “áo cơm ghì sát đất” này đã bắt Hộ không được làm người, nếu chưa bàn đến sẽ trở thành một thú vật, khi Hộ không thể sống theo điều anh đã quan niệm. Khốn khổ và khốn nạn thế đấy! Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ có ai thấu hiểu được nỗi đau tinh thần này? Không biết và không biết.
Vì Hộ là một văn sĩ có lương tâm và anh muốn qua những tác phẩm của mình, tình thương người sẽ được đưa đến khắp nơi, nên Hộ rất muốn có “một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”. Ai dám cho rằng đây là sự kênh kịu của Hộ, sự kênh kịu của một kẻ “vốn nghèo”, lại “đê tiện” thế đây? Con người ta cũng có thể nghĩ như thế nhưng quả thật, Hộ đáng thương hơn là đáng ghét. Bởi xét như Hộ là một văn sĩ luôn biết “đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán” thì không lý nào ước mơ kia lại là sư kiêu ngạo. Và anh muốn anh sẽ chỉ có một quyển sách thôi, một tác phẩm do chính ông viết “sẽ ăn giải Nô-ben và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu”.
Tưởng chừng như bi kịch về nghề nghiệp của Hộ đã là quá đủ đối với anh nhưng không, cái xã hội này không tha cho anh. Nó vẫn bắt anh phải chịu những bi kịch khác. Và rồi bao nhiêu tài năng lẫn cái đức độ của Hộ lại trở thành cái cớ, cái nền rất chắc cho những bi kịch sau này anh phải chịu. Nếu như chính cái tài năng viết văn của mình, hay thậm chí chỉ là quan niệm “văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” đã khiến cho Hộ phải “lãnh đủ” cái thối tha, cái dối trá, cái bất lương thậm chí là cái đê tiện của một kẻ “ngòi bút thơ” cẩu thả, vội vàng; thì chính cái lòng thương người của anh lại là một trợ lực rất chắc, một hậu phương vững vàng cho cái bi kịch về lòng thương người.
Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ còn một người nào khác mà cuộc đời của họ giống như Hộ, đầy rẫy những mâu thuẫn trong tâm hồn. Không biết và không biết. Có lẽ Hộ là người duy nhất. Và chắc Nam Cao cũng là người duy nhất ác đến mức phải đẩy hết nhân vật của mình vào những hoàn cảnh, xem ra thì những nhân vật này có lẽ làm chó sướng hơn. Lật lại những tác phẩm của Nam Cao, Chí Phèo lẫn lão Hạc đều cũng phải sống trong những hoàn cảnh khốn khổ, khốn nạn. Nếu như Hộ phải chịu sự mâu thuẫn về tinh thần thì Chí Phèo lại phải suốt ngày say khướt để rồi om xòm làng xóm cùng bầy chó, cũng như lão Hạc phải kết thúc cuộc đời mình bằng bả chó. Quả thật làm chó sướng hơn.
Trong khi miêu tả con người bị đẩy vào tình trạng có những hành động tàn nhẫn, Nam Cao vẫn dứt khoát không chấp nhận cái ác, vẫn kiên định giữ vững nguyên tắc tình thương của mình. Điều đáng quý là, mặc dù sống trong đau đớn và bế tắc, có lúc mong muốn được giải thoát để lo sự nghiệp cho riêng mình, nhưng Hộ không chấp nhận sự tàn nhẫn và cũng không vứt bỏ tình thương. Cứ mỗi lần vi phạm vào lẽ sống tình thương, Hộ lại dằn vặt, ăn năn, hối hận, tự đấu tranh để vượt lên. Những giọt nước mắt đầy ân hận và xót thương của Hộ ở cuối tác phẩm đã cho ta thấy rõ điều đó.
Có lẽ Nam Cao là một nhà văn thiếu đi một “lương tâm”, mà cái xã hội thối nát xưa cần có, là giả dối, là đê tiện. Ông đã thương thì phải thương đến cùng. Từ khi mở đầu cho “Đời thừa”, Nam Cao dường như đã vô tình đặt lòng thương người của Hộ vào Từ. Họ lấy nhau và rồi tưởng chừng như Hộ sẽ yêu thương Từ mãi mãi. Nhưng “sông có khúc, con người có lúc”. Quả thế, đã có lúc khi nghĩ về gia đình mình, Hộ “đã đứng phắt dậy, mắt chan chứa nước” và bắt đầu giận ghét Từ. Một cơn “điên người lên” chưa từng thấy ở Hộ đã có thể dường như thay đổi toàn bộ bộ mặt của Hộ, thậm chí là giết chết Hộ. Bởi nếu anh là một con người có lòng thương người tha thiết thì hẳn Hộ đã không có những hành động như thế.
Khốn khổ và khốn nạn thế đấy! Nhưng anh không phải là người dễ chiều theo cái thói “điên người lên” của mình. Hộ đã kết thúc nó bằng cách lao vào cơn say mèn của rượu chè. Lại thêm một Chí Phèo nữa. Nhưng lần này Nam Cao lại “nhẹ tay” hơn khi vẫn để cho văn sĩ Hộ còn sống, tỉnh ra và nhận thấy cái dối trá, bất lương, đê tiện của chính mình. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ còn một nhà trí thức nào có một cuộc sống như Hộ. Không biết và không biết.
Trước Cách mạng, Nam Cao thuộc thế hệ nhà văn từ 1930 đến 1945 đã thức tỉnh sâu sắc về ý thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Với Đời thừa, Nam Cao là nhà văn đồng tình với khát vọng được cống hiến, được sáng tạo của người nghệ sĩ chân chính. Qua tấn bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ, Nam Cao thể hiện khát vọng vươn tới một cuộc sống có ích, có ý nghĩa, được phát huy tận độ khả năng tiềm tàng chứa đựng trong mỗi con người. Và chắc có lẽ rằng Nam Cao không phải là người duy nhất khi khắc họa nên bi kịch của một người trí thức.
Người đời còn có thể thấy được bị kịch này trong nỗi niềm của Nguyễn Khuyến: “Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi”. Nguyễn Khuyến như đang vạch trần bộ mặt đê hèn của lối học giả, hư danh xưa. Những người trí thức thật, những “tiến sĩ thật” thì dường như đã bị xã hội vùi dập trong vũng sâu của thời đại. Dù có tài giỏi hay đạo đức đến đâu, khốn khổ cũng như khốn nạn là đây!
Con người đời này khi đọc lại tác phẩm “Đời thừa” của Nam Cao, có lẽ dường như tất cả đều không khỏi ngạc nhiên về cách miêu tả nhân vật rất sắc sảo đến như vậy. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ có ai khác có thể nhập vai nhân vật tuyệt vời như Nam Cao? Không biết và không biết. Nam Cao như hóa thân chính mình vào hoàn cảnh đó để rồi từ tâm lí, lời nói, cách xưng hô, hành động, suy nghĩ đều rất phù hợp. Tác phẩm chỉ kéo dài một ngày từ sáng hôm trước đến sáng hôm sau mà tâm lí nhân vật văn sĩ Hộ đã được toát lên cách đặc biệt và Hộ dường như trở thành đại diện cho giới tri thức trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Xuyên suốt quá trình khắc họa vẻ đẹp nhân vật Hộ, Nam Cao đã nhiều lần đưa chính ông, Hộ và cả người đọc quay đi quay về với quá khứ và hiện tại để rồi toát lên cái tài năng, cái đức độ của một con người có hoài bão, lương tâm nghề nghiệp và quan niệm văn chương đúng đắn. Nhưng rồi cũng vì những điều đó đã dẫn Hộ đến cảnh “điên người lên” vì bi kịch nghề nghiệp, bi kịch lương tâm. Không biết rằng trên cõi đời này, sẽ có một ai giống như Hộ? Không biết và không biết. Khốn khổ và khốn nạn là đây!
- Kết bài:
Tóm lại, tư tưởng nhân đạo thấm nhuần trong sáng tác của Nam Cao. Ở đây, một mặt, nhà văn kế thừa tư tưởng nhân đạo truyền thống, mặt khác lại có thêm những nét sâu sắc, mới mẻ. Với tấn bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ, một người tri thức trong xã hội cũ, một lần nữa, Nam Cao xứng đáng là nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
- Nghị luận “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là bất lương” (“Đời thừa” – Nam Cao)
- Bàn về con người tự ý thức trong truyện ngắn “Đời thừa” của nhà văn Nam Cao.
Tham khảo:
- Mở bài:
Nam Cao (1915 – 1951) là nhà văn hiện thực có gốc nhân đạo rất vững và có nhiều hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của tầng lớp tiểu tư sản nghèo. Vì thế viết về tầng lớp này, ông đã khám phá ra nhiều tấm bi kịch có tầm cỡ thời đại. Một trong những bi kịch đó là người trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống, muốn làm một sự nghiệp cao cả, nhưng bị cuộc sống tàn nhẫn, đẩy vào cảnh Đời thừa, coi tình thương là Đạo lý làm người lớn nhất, nhưng lại tự chà đạp lên tình thương. Nam Cao đồng tình với khát vọng muốn phát huy tài năng con người; đồng thời lên án hoàn cảnh đã bóp nghẹt, tàn phá ước mơ tốt đẹp của con người. Tấn bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ trong Đời thừa được Nam Cao diễn tả một cách thấm thía và cảm động là hiện thân đầy đủ nhất của than phận người trí thức nghèo trong xã hội cũ.
- Thân bài
Hiểu theo nghĩa thông thường bi kịch là nỗi đau khổ dai dẵng không có cách gì giải thoát được. Nhưng theo từ điển văn học thì “Bi kịch chỉ xảy ra khi có sự xung đột giữa khát vọng, hoài bão, lý tưởng của cá nhân với thực tại. Thực tại chưa đủ điều kiện cho phép cá nhân thực hiện lý tưởng của mình nên rơi vào thất bại, thậm chí là dẫn đến cái chết thảm thương”.
Bi kịch thứ nhất của hộ đó là vỡ mộng trong nghề nghiệp văn chương. Hộ là nhân vật chính của tác phẩm Đời thừa (1943). Hộ ít nhiều mang hình bóng tác giả. Đó là một nhà văn luôn luôn ấp ủ hoài bão về một sự nghiệp tinh thần cao cả. Đấy là sự nghiệp văn chương nghệ thuật. Vì lý tưởng nghệ thuật, Hộ có thể hy sinh tất cả “Đói rét không nghĩa lý gì đối với một gã trẻ tuổi say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn chỉ lo vun trồng cho tài năng của hắn ngày một thêm nẩy nở… Đối với hắn lúc ấy nghệ thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không còn gì đáng phải quan tâm nữa” Hộ khao khát vinh quang. “Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, một tác phẩm thật có giá trị.
Theo Hộ, một tác phẩm có giá trị “phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng…Nó làm cho người gần người hơn… Một tác phẩm thật giá trị phải là một tác phẩm chung cho cả loài người “. Hộ phản đối loại văn chương rập khuôn máy móc và đề cao vai trò sáng tạo của người nghệ sĩ: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo ra những gì chưa có”.
Những ý nghĩ ấy không phải là ý nghĩ của một kể hám danh; mà chỉ chứng tỏ Hộ là người có lương tâm nghề nghiệp, có hoài bão lớn lao, có khát vọng cao cả, Hộ muốn khẳng định cá nhân mình trước cuộc đời; muốn cống hiến tài năng tận độ cho xã hội; không bằng lòng với cuộc sống tầm thường vô danh vô nghĩa lý. Những cái hoài bão cao đẹp:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
(Nguyễn Công Trứ)
Bằng nghề văn chương mà Hộ quyết đạt tới với tất cả ý chí nghị lực, tài năng và niềm say mê của tuổi trẻ đó, bỗng chốc tàn tành thành mây khói, chỉ vì một lực cản hết sức tầm thường mà thực ra là rất ghê gớm nghiệt ngã. Đó là những “Lo lắng tủn mủn về vật chất, những bận rộn tệp nhẹp vô nghĩa lý của đời sống hàng ngày” không phải của Hộ, mà là của vợ con, những người mà Hộ hết lòng yêu thương và có trách nhiệm phải đảm đương gánh vác.
Trên hành trình đến chân trời tương lai của sự nghiệp, một ngày kia Hộ gặp Từ, một cô gái dịu dàng đoan trang thuỳ mị, thuỷ chung, xinh đẹp, chịu thương, chịu khó đang rơi vào cảnh khốn cùng. Là con người giàu lòng nhân hậu, Hộ sẵn sàng chìa bàn tay mềm mại của mình ra cứu vớt, dìu dắt cuộc đời Từ ra khỏi chốn bơ vơ. Từ khi Hộ ghép cuộc đời Từ vào cuộc đời hắn, hắn có cả một gánh nặng vật chất gia đình phải chăm lo. Vì vậy, Hộ không thể khinh thường đồng tiền như trước đây nữa.
Trái lại, hắn phải ra sức kiếm tiền. Vốn là một nghệ sĩ chân chính, có lương tâm nghề nghiệp, giàu lòng tự trọng, từng nuôi hoài bão viết những cuốn sách giật giải thưởng Nô ben, Hộ muốn viết một cách cẩn thận. Ấy nhưng vì phải có nhiều tiền để nuôi sống vợ con, Hộ “Phải cho in những cuốn sách viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quyên ngay sau lúc đọc”. Mỗi lần đọc lại những đoạn văn ấy, “hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng và mắng mình như một thằng khốn nạn”. Nghĩa là, vì sự thúc bách của cuộc sống đói nghèo, Hộ không thể sáng tạo những điều mới lạ mà phải viết vội, viết ẩu, viết cẩu thả. “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Đây là nỗi đau đớn nhục nhã nhất đối với một nhà văn chân chính, giàu lương tâm như Hộ.
Như vậy, điều đau đớn của nhà văn Hộ là không phải không được viết, mà chính là cứ phải viết những thứ văn không xứng đáng với một cây bút chân chính, giàu sáng tạo và tài năng như anh. Tấn bi kịch tinh thần đau đớn của nhà văn Hộ, một trí thức nghèo trong xã hội cũ là ở chỗ đó. “Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì để nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì? chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?”. Hộ luôn luôn trăn trở dày vò lương tâm và cảm thấy chán chường vô hạn. Vì thấy đời mình như thế là đã bỏ đi “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt đi rồi! Ta chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương” thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích; một người thừa – “Một kẻ bất lương”.
Thế nhưng, bi kịch tinh thần của nhà văn Hộ không chỉ có thế. Từ nỗi đau vò xé dai dẳng vì phải sống kiếp Đời thừa, Hộ còn lâm vào một tấn bi kịch tinh thần thứ hai cũng đau đớn. Thậm chí có phần đau đớn hơn. Đó là bi kịch của một con người coi tình thương là lẽ sống, là nguyên tắc cao nhất, đã hy sinh tất cả vì tình thương, nhưng chính mình lại dày đạp lên lẽ sống thiêng liêng của mình. Nhà văn Hộ chỉ có thể giải thoát khỏi tình trạng đau khổ, phải sống kiếp Đời thừa, nếu anh thoát ly vợ con, từ chối mọi trách nhiệm gia đình; nghĩa là Hộ phải tự gỡ bỏ những sợi dây ràng buộc tình thương. Bên tai Hộ, lúc này bổng vang lên tiếng nói hùng hồn, đầy kích lệ, nhưng lại sặc mùi phát xít của một nhà triêt học nào đó “Phải biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ!”.
Tuy nhiên, mặc dù đau đớn bế tắc, mong muốn được giải thoát, nhưng với bản tính nhân hậu, Hộ không chấp nhận sự tàn nhẫn, vứt bỏ tình thương: “Hắn có thể hy sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn lại không thể bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là người”. Như vậy, với Hộ, tình thương là trên hết, là tiêu chuẩn quan trọng nhất để xác định tư cách làm người; Không có tình thương, con người chỉ là “một tứ quái vật bị khiến bởi lòng tự ái…” Thật là một quan niệm chứa đựng một ý nghĩa nhân bản sâu sắc. Vì thế, Hộ đã sẵn sàng hy sinh lý tưởng nghệ thuật, để lo toan cứu vớt cuộc sống gia đình. Đây là một sự hy sinh vô cùng lớn lao đối với Hộ. Trở về với tình thương vợ con, Hộ hy vọng rằng sàu một vài năm bỏ phí kiếm tiền, để cho vợ con có một cái vốn nho nhỏ làm ăn thì anh lại có thể trở về với con đường sự nghiệp của mình. Nhưng cuộc sống cơm áo ngày càng khó khăn.
Điều đó đã làm cho giấc mộng văn chương của Hộ một lần nữa tan tành thành mây khói. Nhưng nhiều lúc giấc mộng ấy lại được khơi dậy trong con người Hộ, làm cho anh luôn luôn chứa chất tâm sự u uất đau khổ khôn nguôi. Để giải thoát khỏi cơn đau khổ, bế tắc hiện tại, Hộ, người nghệ sĩ nghèo khổ bất đắc chí ấy đã tìm đến sự giải uất, giải sầu trong men bia, men rượu. Nhưng men rượu cũng chẳng làm vơi đi được mà trái lại chỉ càng nung nấu thêm nỗi sầu uốt không nguôi của anh như lửa đổ thêm dầu, làm cho anh càng trượt dài trên con đường tha hoá nhân cách. Trong cơn say, Hộ càng thấm thía nỗi khổ sở đắng cay của mình.
Uất hận, Hộ đã trút tất cả vào vợ con, người mà anh tưởng là nguyên nhân của cảnh bế tắc đời mình hiện tại. Và con người đầy tình thương, đã hy sinh tất cả vì tình thương và trách nhiệm đối với người thân đó, đã hơn một lần đối xử thật phũ phàng, thô bạo như một tên vô lại đối với vợ con. “Cả con mẹ nữa … cũng đáng vật một nhát cho chết cả”. Và Hộ đã “đánh cả Từ, đuổi Từ đi, rồi mới đóng cửa lại và đi ngủ”. Và khi vi phạm vào lẽ sống nhân đạo thì Hộ biết ăn năn, sám hối. “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh“, nhớ đến hành vi khốn nạn của mình, Hộ giật mình, mình lại dày vò khổ đau. Hộ ân hận, khổ đau vì đã xúc phạm, đã gây ra nỗi đau khổ nặng nề cho vợ anh, người vợ mà anh hết lòng thương yêu; người vợ “đã khổ cả một đời người, người vợ rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm đối với anh”.
Khi lại gần người vợ đang bế con nằm ngủ một cách mỏi mệt trên võng, nhận ra dáng người thật khó nhọc và khổ não với khuôn mặt xanh xao có cạnh, đôi mắt thâm quầng, cùng “làn da mỏng và xanh trong, xanh lọc”, “Cái bàn tay lủng củng rặt những xương!”, “nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc … Ôi chao! Hắn khóc. Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc”. Lời nói nghẹn ngào vì đẫm nước mắt của Hộ là lời tự xỉ vả đau đớn: “Anh … chỉ là … một thằng .. khốn nạn!” Lời xỉ vả ấy có ý nghĩa như những cái tát nẩy lửa tát thẳng vào chính tần hồn Hộ, người đang tự chà đạp không thương tiếc vào đạo lý làm người thiêng liêng của mình.
Nếu như cái bi kịch thứ nhất, không thực hiện được hoài bão, cứ phải sống vô vị như một người thừa, tuy đau đớn, nhưng còn có lý do để an ủi, vì đã hy sinh cho lẽ sống tình thương, thì bi kịch thứ hai này, đối với Hộ không có gì có thể an ủi biện hộ để có thể nguôi quên. Vì thế nó càng trở nên chua chát, đau đớn vô cùng. Tiếng khóc nức nở và những giọt nước mắt chảy dài cuối tác phẩm của Hộ đã nói lên một cách thấm thía điều đó.
Như vậy, với tư cách là một nghệ sĩ, muốn sống cho có hoài bão, luôn luôn sáng tạo và cống hiến tài năng tận cùng cho xã hội, thì vì cơm áo hàng ngày mà Hộ phải bán rẻ lương tâm và ngòi bút của mình để phải sống cuộc sống Đời thừa; còn với tư cách là một con người, Hộ muốn sống vì lẽ sống tình thương, thì cũng vì cuộc sống quẫn bách mà đã tự mình phản bội lại lẽ sống của mình để trở thành kẻ “khốn nạn”. Điều đó đã trở thành tấn bi kịch tinh thần đau đớn vò xé trái tim Hộ đến ứa máu.
Qua bi kịch tinh thần của Hộ, Nam Cao muốn đặt ra một vấn đề có ý nghĩa muôn đời: “Số phận của nghệ thuật chân chính là lý tưởng nhân đạo cao cả trước thử thách nghiệt ngã của cái đói, của “miếng ăn”, của gánh nặng áo cơm hàng ngày. Cả nghệ thuật chân chính, cả lý tưởng nhân đạo cao cả có nguy cơ “chết mòn” trước sự tấn công dai dẳng và quyết liệt của những cái vặt vãnh hàng ngày” (Trần Đăng Xuyền). Với ý nghĩa đó, Đời thừa đã vút lên tiếng kêu khẩn thiết, hãy “nhân đạo hoá hoàn cảnh” để con người được sống nhân đạo, để cho nghệ thuật chân chính được nảy nở và đơm hoá kết trái trên mảnh đất cuộc sống giàu đẹp và văn minh.
- Kết luận:
Từ việc phát hiện ra hai tấn bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ – một tri thức nghèo, Nam Cao đã lập được một bản cáo trạng đanh thép đối với xã hội đương thời – một xã hội đã tước đoạt giá trị, ý nghĩa của cuộc sống, phá hoại những nhân cách, tài năng con người. Tác phẩm làm khơi dậy trong trái tim người đọc niềm khát vọng vươn tới cái thiện, cái đẹp và làm cho người đọc biết sám hối trước những tha hoá xấu xa của mình. Đó chính là giá trị nhân văn sâu sắc, độc đáo mới mẻ của Đời thừa. Với giá trị độc đáo đó, Đời thừa mãi mãi còn nói thẳng được với tâm hồn các thế hệ mai sau.