Hình tượng người tri thức trong sáng tác của Nam Cao.

hinh-tuong-nguoi-tri-thuc-trong-sang-tac-cua-nam-cao

Hình tượng người tri thức trong sáng tác của Nam Cao.

Nam Cao là một nhà văn lớn, có một vị trí đặc biệt trong văn học Việt Nam giai doạn 1930-1945. Những tác phẩm của Nam Cao phần lớn được sáng tác trước cách mạng, đánh dấu bước phát triển của trào lưu văn học hiện thực phê phán trong một thời kì tưởng chừng như bế tắc. Nam Cao bước vào văn đàn khi trên văn đàn đã có nhiều nhà văn đàn anh nổi tiếng như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng…Nhưng tên tuổi của Nam Cao không bị lu mờ, trái lại, ông trở thành nhà văn nổi tiếng, là ngọn cờ đầu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Có được thành công này là vì Nam Cao đã không giẫm lên lối mòn của những người đi trước trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Những tác phẩm của Nam Cao đã phản ánh cuộc sống ngột ngạt, đen tối của xã hội Việt Nam, nhất là cuộc sống của những người nông dân, những người tri thức vào những năm 1940-1945.

Nam Cao là nhà văn, là một trí thức không được đào tạo ở phương Tây nhưng dưới nhà trường thuộc địa thời bấy giờ, Nam Cao sớm tiếp thu những tư tưởng văn hóa mới. Trong sáng tác của Nam Cao có những yếu tố ảnh hưởng từ các nhà văn Nga. Kế thừa, học tập môt cách sáng tạo những thành tựu, những đặc sắc nghệ thuật của các bậc văn nhân tiền bối trong nước và cả ngoài nước, Nam cao đã trở thành nhà văn hiện thực phê phán vĩ đại của nền văn học Việt Nam hiện đại.

Hình tượng người trí thức được nói đến nhiều trong văn học phương Tây, kể cả văn học Nga. Còn ở Việt Nam, sự thật thì người trí thức chưa bao giờ là một hình ảnh nổi đậm và có vai trò riêng trong đời sống xã hội phong kiến và thuộc địa ở Việt Nam, bởi chưa bao giờ họ có đủ tiềm lực để cùng đồng hành hoặc là hậu thuẫn cho các giai tầng cơ bản làm nên một cuộc cách mạng trong lịch sử. Bởi cho đến trước 1945 một cuộc cách mạng như thế trong xã hội Việt Nam là chưa có, mà chỉ có những cuộc khởi nghĩa hoặc bạo động của nông dân mà thôi. Nếu vấn đề người trí thức đã là một chủ đề lớn trong văn học phương Tây, gồm cả văn học Nga, thì ở ta, nó chưa bao giờ trở thành vấn đề, càng chưa là chủ đề quan trọng ngay cả trong văn học hiện đại. Phải vào những năm 40, với Nam Cao, Thạch Lam và Nguyễn Huy Tưởng… vấn đề người trí thức mới xuất hiện, trên một số khía cạnh vừa gắn bó, vừa độc lập với các vấn đề chung của nhân dân và dân tộc.

Nhân vật trí thức của Nam Cao có đời sống tinh thần phức tạp nhiều khát vọng, muốn sống có ích để lại cái gì cho đời, song luôn bị những chuyện cơm áo gạo tiền chi phối. Những lo toan về miếng ăn hàng ngày tưởng chừng vặt vãnh, không đáng kể, song nó có sức bào mòn, hủy diệt nhân cách con người, không cho họ ngẩng mặt với đời, sống cuộc sống tự do sáng tạo, tức cuộc sống có ý nghĩa đích thực.

Các nhân vật của Nam Cao luôn khao khát có việc làm, có tiền, có cuộc sống đầy đủ, không phải lo đến cơm áo gạo tiền. Thứ và San trong “Sống mòn” là những nhân vật như thế. Họ đã bị hắt ra bên lề xã hội. Từ những ước mơ lớn không thực hịên được. Thứ và San chỉ muốn kiếm đủ tiền để nuôi vợ nuôi con để yên thân , nhưng Thứ làm việc đến kiệt sức, hà tiện đến vắt ruột mà vẫn túng thiếu. Những con người xung quanh Thứ vì miếng cơm manh áo mà trở nên ích kỉ, nhỏ nhen, ti tiện (San, Oanh, Đích). Đó là hoàn cảnh của một thanh niên trẻ tuổi mang nhiều mơ ước, khao khát có công việc nhưng không tìm ra việc; trong cảnh thất nghiệp, may mắn tìm được chân một nhà giáo dạy tư để nuôi thân và để vực gia đình; có ước nguyện viết văn khá sớm nhưng vào nghề rất vất vả; nhưng dẫu vất vả vẫn phải hành nghề, vừa để kiếm sống, vừa như thực hiện một lẽ sống.

Nhân vật trong sáng tác của Nam Cao có nhiều ước mơ. Đặc biệt là ước mơ viết văn một cách chân chính với tư cách là một nhà văn chân chính: “Nghệ thuật là tất cả, sẽ có một tác phẩm làm mờ những tác phẩm khác. Tác phẩm của Hộ sẽ ăn giải Nô-ben và được dịch ra đủ các thứ tiếng trên hoàn cầu.” Hộ cũng đã từng thốt lên một cách cuồng thiệt: “Đói rét không nghĩa lí gì đối với một kẻ say mê lí tưởng. Lòng hắn đẹp, đầu hắn mang một hoài bão lớn.” (Đời thừa). Đền cũng mơ ước trở thành nhà văn nổi tiếng để có biết bao các bà, các cô ngưỡng mộ Điền và gửi cho Điền “những bức thư xinh xinh ướp nước hoa” (“Trăng sáng”). Thứ ước mơ là một thầy giáo tận tụy với nghề và thay đổi cuộc sống để thoát khỏi cảnh “chết rồi mà vẫn như là chưa sống” (Sống mòn). Ước mơ của họ cũng đa dạng, xấu có tốt có. Cũng có những người trong số họ mơ ước ăn ngon mặc đẹp, yêu những thiếu nữ tân thời (Sang và Điền ), nhưng rồi mọi ước mơ của những người trí thức tiểu tư sản đều là ảo tưởng. Từ những ước mơ, những hòai bão, những dự định lớn lao họ không thực hiện được, đến những ước mơ tầm thường là làm việc đủ ăn và được sống yên thân cũng không xong. Họ đã bị cuộc đời nhỏ nhen, tù túng siết chặt và cắt đứt mọi ước mơ, mọi ước muốn. Đó là bi kịch vỡ mộng của cuộc đời họ.

Thế giới bên trong nhân vật dần được hé mở và thông qua những tự bạch của nhân vật trước mắt người đọc hiển hiện một con người có đời sống tinh thần phức tạp, nhiều khát vọng, muốn sống có ích, để lại cái gì cho đời, song luôn bị những chuyện cơm áo gạo tiền chi phối. Những lo toan về miếng ăn hằng ngày tưởng chừng vặt vãnh, không đáng kể nhưng nó có sức mạnh bào mòn, hủy diệt nhân cách con người, không cho họ ngẩng mặt với đời, sống cuộc sống tự do sáng tạo, tức cuộc sống đích thực.

Trong truyện Nam Cao, bản thân người trí thức cũng lâm vào bi kịch trong lối sống mòn của bản thân. Nam Cao đã phản ánh trung thực cuộc sống mòn mỏi, bế tắc của tầng lớp trí thức tiểu tư sản , đồng thời phản ánh một xã hội đen tối ngột ngạt trước thảm hại chiến tranh đế quốc. Ông không tô hồng bản chất của tầng lớp mình. Trái lại, ông mổ xẻ, phê phán lối sống mòn thật thảm hại, kéo lê cuộc sống vô nghĩa, tẻ nhạt của mình qua những ngày vô vị, một lối sống mà theo Nam Cao là không xứng đáng với cuộc sống con người. Lối sống này bắt nguồn từ tâm lý yếu đuối, bất lực trước hoàn cảnh (do điạ vị kinh tế bấp bênh, do tính chất hay dao động, do dự của giai cấp tiểu tư sản Việt Nam trước cách mạng ).

Nhà văn cũng vạch rõ ước mơ, tài năng của những người trí thức tiểu tư sản trong xã hội cũ là mâu thuẫn với cuộc sống thực tại, mâu thuẫn với chính số phận của họ. Nguyên nhân của bi kịch trên căn bản là do chế độ xã hội và một phần do chính những người trí thức tiểu tư sản chưa có tư tưởng tích cực vươn lên thoát khỏi cuộc sống nghèo đói, bạc bẽo. Qua các sáng tác của Nam Cao, ta thấy một vài đặc điểm của đề tài trí thức tiểu tư sản: đó là, các nhân vật đều là những tri thứ tiểu tư sản nghèo: nhà văn Hộ, nhà giáo Điền, cậu học sinh Lưu, và những nhân vật mà tác giả gọi là “hắn”, “tôi”, “y”… nhìn chung là những người nghèo. Họ có một gia đình nho nhỏ, một vốn tri thức nho nhỏ, đủ để đứng vào đội ngũ những người tri thức. Họ xuất thân đều từ nông thôn, gần gũi với cuộc sống những người nông dân. Nhưng từ họ đến người nông dân còn một khoảng cách khác xa. Một hình ảnh trung thực về người trí thức trong xã hội thuộc địa phải đến Nam Cao mới xuất hiện. Trước ông, trong văn học hiện thực còn chưa có. Ở đây không nói đến những “hủ Nho” của nền học cũ, trong thơ văn của các chí sĩ đầu thế kỷ. Đó là người trí thức vừa trong chật vật của sự mưu sinh, vừa trong bi kịch của những thất vọng và bế tắc tinh thần. Khơi sâu được vào trong những bi kịch của người trí thức trong xã hội thuộc địa – đó là nét đặc trưng và cũng là đóng góp của Nam Cao trong giai đoạn kết thúc văn học hiện thực Việt Nam trước 1945.

Có thể nói, âm điệu chủ đạo trong sáng tác của Nam Cao về người trí thức là sự vùng vẫy của con người tự ý thức về mình, song bất lực trước cuộc đời. Nhân vật Thứ trong tiểu thuyết “Sống mòn” là một điển hình tiêu biểu. Vốn dĩ là những tri thức, lẽ ra Thứ phải được xã hội trọng vọng, tôn vinh hay chí ít, cũng có cuộc sống êm ấm để thực hiện được những ước mơ chính đáng của mình. Song ở đây hoàn toàn ngược lại, anh rơi vào cảnh “sống mòn” và không còn là chính mình. Từ đề tài người trí thức, nhà văn đã phản ánh trọn vẹn thực trạng của xã giá trị hiện thực, giá trị tố cáo mà còn thể hiện được giá trị nhân đạo của hai tác giả hiện thực có “cơ duyên tương hợp”.

“Sống mòn”, Nam Cao đã phản ánh một cách chân thực và cảm động “tấn bi kịch tinh thần” của một người trí thức với bao mộng đẹp và hoài bão cao cả đã bọ cuộc sống “cơm, áo, gạo, tiền” ghì sát đất. Thông qua bi kịch nhân vật, ngòi bút của nhà văn đã phanh phui đến tận cùng đời sống quẩn quanh, vô nghĩa, kiếp sống “sẽ mốc lên, sẽ gỉ đi, sẽ mòn, mục ra” của kẻ trí thức trong xã hội thực dân phong kiến ở Việt Nam thời bấy giờ.

Tuy vậy, Thứ có nhận thức sâu sắc về hoàn cảnh của chính mình. Anh có ý thức rất rõ về bi kịch của mình: “Rồi y sẽ chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sống!…Nghĩ thế y thấy nghẹn ngào, thấy uất ức vô cùng! Không! Y sẽ không chịu về quê. Y sẽ đi bất cứ đâu, mặc rủi may…” . Thứ suy nghĩ , trăn trở về cuộc sống trong sự dằn vặt khôn nguôi, tha hóa của nhân cách và lòng khao khát được đổi thay cuộc sống. Nhân vật Thứ đại diện cho tầng lớp trí thức ôm những hoài bão, khát khao lớn lao tốt đẹp nhưng bị cuộc sống cơm áo, nhữn gtoan tính vụn vặt làm cho cuộc đời họ lâm vào bi kịch.

Nhiều nhà nghiên cứu đã nói tới kiểu truyện không có cốt truyện Nam Cao, coi đây là một trong những cách tân nghệ thuật lớn của của ông. Cốt truyện mang ý nghĩa quan trọng đối với Nam Cao giai đoạn sáng tác ban đầu. Cốt truyện rộng với những bước chuyển tự do, những kết thúc đột ngột trong các truyện của nhà văn cho thấy ông có năng lực như thế nào trong việc hư cấu những truyện ngắn cuốn hút người đọc.

Miêu tả những bi kịch đời thường của những người tri thức, sáng tác của Nam Cao đã mở ra một trang mới cho chủ nghĩa hiện thực mà nguyên tắc sáng tác hàng đầu là tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Trong sáng tác của hai ông không có những anh hùng hay những tội đồ khét tiếng, mà bất cứ con người nào, cho dù là những “y”, “thị”, “hắn”, “gã” đều có thể trở thành những nhân vật điển hình; những sự kiện vặt vãnh.

Để tạo sự hấp dẫn cho những truyện có cốt truyện đơn giản, Nam Cao đặc biệt chú ý đến kết cấu tác phẩm nhất là yếu tố thời gian – một yếu tố hình thức quan trọng của văn bản nghệ thuật. Và ở lĩnh vực này một lần nữa chúng ta nhận thấy những tương đồng mang tính cách tân của nhà văn.

Kết cấu thời gian có những quy luật xác danh. Mỗi một khâu nối tiếp văn bản mở ra cho người đọc những điều mà trước đó còn chưa được biết tới, và điều đó kích thích trí tưởng tượng. tình cảm và những suy nghỉ cho người đọc. Tác phẩm luôn phải hé mở điều gì đó cho độc giả ở phía trước khiến họ bị lôi cuốn tới cùng. Sự bí ẩn thường là cơ sở để triển khai các sự kiện, tình huống trong tác phẩm văn học hiện thực truyền thống, song trong truyện ngắn của Nam Cao đó chủ yếu là bí ẩn tâm hồn nhân vật, bí mật về ý đồ của tác giả và ý nghĩa nghệ thuật của tác phẩm.

Bằng cách chon ngôi kể hợp lí, Nam Cao từng bước dẫn dắt người đọc trực tiếp thăm dò vào không khí câu chuyện. Nhà văn thường chọn những tình huống có khả năng giúp cho hành động trực tiếp phát triển. Mở đầu truyện ngắn của họ rất linh hoạt, cho dù nói về thiên nhiên hay con người.

Phân tích mâu thuẫn giữa lý tưởng và hiện thực trong truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.