»» Nội dung bài viết:
Phân tích “Hồn Trương ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ
Hướng dẫn làm bài:
I. Mở bài:
– Lưu Quang Vũ là một trong những cây bút tài hoa để lại những dấu ấn trong nhiều thể loại : thơ, văn xuôi và đặc biệt là kịch. Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
– Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, đánh dấu sự vượt trội trong sáng tác của Lưu Quang Vũ. Dựa trên một truyệ cnổ tích cổ trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Lưu Quang Vũ đã viết thành vở kịch nói cùng tên vào năm 1981 và được trình diễn lần đầu tiên vào năm 1984.
– Vở kịch đặt ra vấn đề, đó là bi kịch sống nhờ của Hồn Trương Ba trong xác anh hàng thịt. Lời thoại trên là lời của Hồn Trương Ba nói với Đế Thích, có ý nghĩa triết lý về sự thống nhất, hài hòa giữa hồn và xác trong một con người.
II. Thân bài:
1. Hoàn cảnh éo le, bi đát của ông Trương Ba:
– Trương Ba là người làm vườn yêu cây cỏ, yêu thương mọi người, sống nhân hậu, chân thực. Từ việc gạch tên chết người vô trách nhiệm của quan nhà trời và “thiện ý sửa sai” của Đế Thích mà Trương Ba phải chết.
– Hồn Trương Ba phải trú nhơ vào xác anh hàng thịt, một người thô lỗ,… Tính cách Trương Ba ngày càng thay đổi.
– Nỗi khổ của Hồn Trương Ba khi phải sống nhờ vào xác anh hàng thịt : vợ con nghi ngờ, xa lánh ; do sự xui khiến của thân xác hàng thịt, Hồn Trương Ba có những hành vi, cử chỉ thô lỗ, vụng về.
– Hồn Trương Ba cương quyết không sống trong xác anh hàng thịt. Khát vọng giải thoát khỏi thân xác người khác khiến Hồn Trương Ba gọi Đế Thích lên để nói rõ bi kịch sống nhờ, sống không đúng mình.
2. Bi kịch của sự oan trái:
– Cuộc đối thoại giữa hồn và xác:
+ Lời thoại này thể hiện rõ quan niệm về hạnh phúc của nhà viết kịch. Hồn Trương Ba đã có một thân xác để tồn tại, để tiếp tục sống, ngỡ đó là hạnh phúc. Nhưng hóa ra hạnh phúc ở đời không phải là được sống mà sống như thế nào. Hồn là biểu tượng cho sự thanh nhã, cao khiết, trong sạch, đạo đức nhưng tất cả hoàn toàn trái ngược qua phần đối thoại với xác. Hồn Trương Ba để lại trong mắt xác hàng thịt là một kẻ phàm ăn, tục uống ; mê rượu và háo sắc ; cư xử thô bạo với mọi người,…
+ Những biểu hiện ngay trong đối thoại khi Hồn Trương Ba không còn là chính mình : cư chỉ, điệu bộ lúng túng, khổ sở ; giọng điệu có khi yếu ớt, lời thoại ngắn ; khi đuối lý lại dùng lời lẽ thô bạo để trấn áp “Ta… Ta… đã bảo mày im đi”.
– Lời thoại là bức thông điệp mà Lưu Quang Vũ muốn nhắn gửi qua bi kịch của Trương Ba: con người phải được sống như chính mình, sống hòa hợp giữa hồn và xác – tâm hồn trong sạch như thân xác được khỏe mạnh. “Tôi muốn là tôi toàn vẹn”, đấy mới là hạnh phúc.
– Nỗi đau khổ của Hồn Trương Ba khi tìm về những người thân trong gia đình:
+ Người vợ vừa hờn ghen vừa dằn dỗi chồng, có cảm giác ông là người sống xa lạ với mọi người. + Đứa con trai cả quyết định bán khu vườn để đầu tư vào sạp thịt.
+ Cái Gái, đứa cháu nội mà ông yêu quý nhất, không thừa nhận ông là ông nội, thậm chí nó còn cự tuyệt đến quyết liệt “Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông”. Trong mắt nó, Hồn Trương Ba chỉ là một tên đồ tể, tay chân vụng về, luôn phá hoại.
+ Con dâu tỏ ra thông cảm, hiểu và đau cho nỗi đau sống nhờ và sự thay đổi của Hồn Trương Ba. à Bi kịch bị người thân xa rời, khước từ cuộc sống.
– Khát vọng giải thoát khỏi thân xác người khác. Trương Ba tự ý thức bi kịch của mình : “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.
⇒ Bi kịch sống nhờ vào thân xác người khác – Trương Ba trước cái chết của cu Tị.
+ Trước đề nghị đổi thân xác của Đế Thích, tính cách Trương Ba từ chỗ lưỡng lự, suy nghĩ rồi quyết định dứt khoát.
+ Trương Ba muốn chết thật là để cho mình được sống mãi hoài nhớ của mọi người. à Giải thoát bi kịch của một sự giả tạo trong con người Hồn Trương Ba.
3. Những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này.
– Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn.
– Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện
4. Đánh giá:
– Tình huống éo le của vở kịch là nét đặc sắc tạo nên sự khác biệt giữa truyện dân gian và vở kịch. Hồn Trương Ba là một nhân vật quá chú trọng đời sống tinh thần mà coi nhẹ thân xác.
– Thông qua lời thoại của nhân vật, Lưu Quang Vũ đã thể hiện quan niệm sống giàu giá trị nhân văn. Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba là bi kịch về nỗi đau của sự vênh lệch giữa thể xác và tâm hồn trong một con người.
– Nhà văn đã dựng lên được những kịch tính thông qua cử chỉ, hành động, đặc biệt là lời thoại của nhân vật sinh động có tầm khái quát cao.
– Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật, nghệ thuật tạo tình huống và diễn tiến kịch kích độc đáo.
III. Kết luận
– Đánh giá chung về nhân vật.
– Khẳng định tài năng viết kịch của Lưu Quang Vũ và sức sống của tác phẩm “Hồn Trương ba, da hàng thịt”
- Suy nghĩ về mối quan hệ giữa “bên ngoài và bên trong“ qua vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt“ (Lưu Quang Vũ)
- Chứng minh: tư tưởng, triết lí nhân văn sâu sắc trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt
- Giá trị nhân văn cao cả trong vở kịch “Hồn trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ
Bài tham khảo:
- Mở bài:
Lưu Quang Vũ là một tài năng đa dạng, là nhà viết kịch thành công nhất của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ngoài kịch, ông còn sáng tác nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, vẽ tranh nhưng kịch là có những đóng góp đặc sắc nhất. Kịch của ông sắc sảo và dữ dội vì vậy ông trở thành hiện tượng đặc biệt của sân khấu, là nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Hồn trương ba, da hàng thịt là vở kịch được viết năm 1981, nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công chúng. Đó là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lý và nhân văn sâu sắc.
- Thân bài:
Đoạn trích từ cảnh VII và đoạn kết của vở kịch, diễn tả sự đau khổ và dằn vặt và quyết định cuối cùng của hồn Trương Ba. Trương Ba là một người làm vườn giỏi, giỏi đánh cờ, rất yêu thương vợ và con cháu. Do thái độ làm việc tắc trách của Nam Tào, mà Trương Ba phải chết bất ngờ. Vì yêu quý Trương Ba mà Đế Thích (một vị tiên giỏi cờ) đã hóa phép cho hồn Trương Ba sống lại. Hồn Trương Ba thì nguyên vẹn nhưng phải mượn xác anh hàng thịt để trú ngụ. Trú ngụ trong xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái: Lí trưởng hạch sách, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ… Bản thân Trương Ba đau khổ vì sống trái tự nhiên, giả tạo.
Đặc biệt thân xác anh hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số thói xấu và do những nhu cầu vốn không phải của chính bản thân ông. Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và sự phiền toái do mượn thân xác của kẻ khác. Trương Ba quyết định trả lại xác cho anh hàng thịt và xin cho cu Tị sống lại còn mình chết hẳn, không nhập vào thân xác ai nữa.
Qua vở kịch, tác giả khẳng định: Cuộc sống là quý giá nhưng phải sống đúng với mình, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Tuy nhiên, con người cũng phải đấu tranh với nghịch cảnh để chống lại sự tầm thường, dung tục để hoàn thiện nhân cách.
Từ một câu chuyện cổ tích, Lưu Quang Vũ đã nhận thấy sự tương đồng giữa ý nghĩa câu chuyện và cuộc sống hiện tại của con người. Nhân vật trương Ba là một hóa thân tài tình của nhà văn. Lưu Quang Vũ đã để cho nhân vật tự đấu tranh kịch liệt. Những lực lượng khác từ bên ngoài tuy có tác động nhưng rất mờ nhạt. Chủ đề câu chuyện được bộc lộ rõ nhất qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt.
Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt.
Sự hoán đổi thân xác và linh hồn giữa trương Ba và anh hàng thịt là một việc tình cờ, là lỗi của các vị thần. Sự nhầm lẫn đó đã khiến cho hồn Trương Ba Trong thân xác hàng thịt đã vô cùng đau khổ, bức bối, chán nản, ngày càng thấy xa lạ với mọi người, với chính mình, nên đã cố gắng thoát ra khỏi xác.
Hồn khinh bỉ, xem thường xác hàng thịt, xem nó chỉ là cái vỏ bên ngoài “âm u đui mù” “ không cảm xúc” “không tư tưởng không ý nghĩa gì” chỉ biết đến những hưởng thụ thấp kém. Điều đó khẳng định linh hồn “có một đời sống riêng nguyên vẹn, trong sạch thẳng thắng”. Hồn Trương Ba luôn phủ nhận sự lệ thuộc vào thân xác vốn không phải là của mình và tìm cách thoát ra khỏi nó để tồn tại độc lập.
Ngược lại với nỗi đau khổ của linh hồn Trương Ba, xác hàng thịt luôn cười nhạo hồn Trương Ba với lí lẽ: “Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chịu theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch thẳng thắng”. Nó khuyên Hồn Trương Ba hãy thóa hiệp, quy phục vì “chẳng còn cách nào khác đâu” “ đã bảo chúng ta là một”
Đó là sức mạnh âm u đui mù ghê gớm của thân xác có thể lấn át và điều khiển linh hồn. Xác tỏ ra lấn lướt, ranh mãnh, sỉ nhục hồn, dồn hồn Trương Ba vào thế đuối lí, phải chấp nhận thực tại. Trước những lí lẽ ti tiện của xác thịt, hồn Trương Ba đã ngậm ngùi thấm thía nghịch cảnh của mình và bế tắc, tuyệt vọng, đành nhập trở vào xác hàng thịt.
Xây dựng cuộc đấu tranh kịch liệt ấy, Lưu Quang Vũ muốn khẳng định Hồn Trương Ba là ẩn dụ cho linh hồn con người với những giá trị tinh thần, đạo đức thanh cao chân chính. Xác hàng thịt là ẩn dụ về thể xác phàm tục của con người với những ham muốn bản năng, tầm thường, dung tục.
Từ cuộc đối thoại đó tác giả đã gửi những thông điệp đầy ý nghĩa triết lí. Con người là hòa hợp thống nhất giữa linh hồn và thể xác. Thể xác có tính độc lập tương đối, nó có tiếng nói riêng có khả năng tác động vào linh hồn.
Hồn Trương Ba có cuộc sống hổ thẹn khi phải sống chung với phần thể xác dung tục và bị sự dung tục đồng hóa. Từ đó đó tác giả cảnh báo: khi con người phải sống dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thẳng thế, sẽ lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người. Vì thế phải đấu tranh để loại bỏ sự dung tục, giả tạo để cuộc sống trở nên tươi sáng hơn, đẹp đẽ và nhân văn hơn.
Cuộc đối thoại giữa hồn Trưng Ba và người thân.
Vì phải thỏa mãn những đòi hỏi của xác hàng thịt, hồn Trương Ba dần dần thay đổi. Bởi thế ông bị người thân xa lánh, sợ hải, thậm chí ghét bỏ, ghê tởm…
Vợ Trương Ba: Thấy rõ nhất sự thay đổi của ông “ông bây giờ còn biết đến ai nữa… ông đâu còn là ông Trương ba làm vườn ngày xưa”. Điều đó khiến hồn Trương ba buồn bã, đau khổ, định bỏ nhà đi và nhường Trương Ba cho vợ anh hàng thịt.
Cái Gái: tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục. Nó trách móc: “bàn tay giết lợn” đã làm gãy cái diều, “ bàn chân to bè” giẫm nát cả cây… và lên án, xua đuổi “ ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tề! Cút đi!”
Cô con dâu: thông cảm xót thương cho tình cảm trớ trêu của bố chồng “con biết bây giờ thầy khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng chị cũng lo sợ, đau đớn khi cảm thấy bố mình thay đổi “ Mỗi ngày…. Một đổi khác dần, mất mát dần” không còn “ hiền hậu tốt lành như xưa”
Trước phản ứng của mọi người, hồn Trương Ba hiểu ra những đau khổ mình đã, đang và sẽ gây ra cho họ. Ông trở thành kẻ xa lạ, thậm chí đáng ghét trong mắt người thân. Sự tồn tại của ông trở nên vô nghĩa. Trương Ba rơi vào tình trạng nguy kịch, sự bế tắc và tuyệt vọng.
Khi những đau khổ, sự tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, hồn Trương Ba cảm thấy rất hụt hẫng, cô đơn. Cả thế giưới dường như quay lưng lại với ông. Tình huống kịch thúc đẩy Trương Ba phải đi đến quyết định dứt khoát. Trương Ba quyết định gặp Đế Thích để hỏi cho ra lẽ.
Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với Đế Thích.
Giũa Đế Thích và Trương Ba có quan niệm khác nhau về sự sống. Đế Thích quan niệm về sự sống rất đơn giản. Với Đế Thích, sống chỉ để được sống (với hàm nghĩa là không chết). Chính Trương Ba cũng đã chất vấn Đế Thích điều này: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Với quan niệm đó nên Đế Thích đã cho Trương Ba sống nhờ xác hàng thịt. Mục đích của Đé Thích là để Trương ba được sống tiếp, còn sống như thế nào ông không quan tâm đến.
Khi Trương Ba đòi rời bỏ thân xác bẩn thỉu ấy, Đế Thích còn đề nghị sửa sai bằng cách cho Trương Ba sống nhờ xác cu Tị. Đó cũng là một đè nghị đối với trương Ba chẳng có gì khác biệt.
Đế Thích là đại điện cho một số người vẫn đang sống giả tạo mà không ảnh hưởng gì. Họ mạc nhiên với cuộc sống. Họ vô tư sửa cái sai của cuộc sống bằng cái sai khác. Họ không quan tam đến quá trình vận động, sụ tương thích giữa các vật thể. Đối với họ, sự tồn tại theo nghĩa chân thật nhất mới có giá trị. Cái chân thật tôn quý ấy không có gì khác ngoài bản năng hết sức đê tiện và thấp hèn.
Khác với Đế Thích, Trương Ba có quan niệm hoàn toàn khác. Với ông, con người phải sống hài hòa giữa thể xác và linh hồn không thể “bên trong một đàng bên ngoài một nẻo”. Không thể sống vô trách nhiệm với mình như một kiểu tồn tại được. Không thể sống lệ thuộc vào người khác dù là của cải chứ đừng nói đến thể xác. Sống nhờ đồ đạc, của cải của người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt.!
Mâu thuẫn trong quan niệm của hồn Trương Ba và Đế Thích về ý nghĩa cuộc sống đã tô đậm chủ đề tác phẩm. Được sống làm người là quí giá, nhưng được sống là chính mình, sống trọn vẹn hài hòa giữa thể xác và tâm hồn còn quí giá hơn nhiều.
Quyết định cuối cùng của Trương Ba.
Đế Thích khuyên Trương Ba hãy chấp nhận cuộc sống hiện tại vì cho rằng cảnh ngộ của Trương Ba không phải là cá biệt. Đế Thích lại muốn sửa sai bằng cách đề nghị hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị. Rốt cuộc, mục đích của Đế Thích là muốn Trương Ba phải sống.Không muốn sống bằng thân xác anh hàng thịt thì sống bằng thân xác của cu Ti, một em bé mới vừa chết. Tâm ý của Đế Thích là rất tốt. Nhưng cách thực hiện thì mù quáng, vô trách nhiệm.
Hồn Trương Ba kiên quyết từ chối không sống nhờ thân xác ai cả và cũng không chấp nhận cách sửa sai của Đế Thích. Bởi “có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác.” Việc đúng đắn ấy là việc gì không ai biết nhưng chắc chắn sẽ tố đẹp hơn, cao thượng hơn.
Cuối cùng Trương Ba xin Đế Thích làm cho cu Tị sống lại còn mình thì trả xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết vĩnh viễn. Cu Ti số đã tận. nhưng nhờ lòng tốt của Trương Ba mà sống lại. Qua đó ta thấy Trương Ba là người giàu lòng nhân ái, đầy trách nhiệm và tình thương với bản thân và với mọi người xung quanh. Dũng cảm chiến đấu chống lại sự giả tạo và dung tục bảo vệ quyền được sống vẹn toàn, hợp với lẻ tự nhiên để hoàn thiện nhân cách.
Qua cuộc đối thoại ta thấy vẻ đẹp tâm hồn của con người trong việc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo, bảo vệ quyền sống toàn vẹn của con người. Cái chết của Trương Ba là sự hóa thân khẳng định cái thiện thắng cái ác, sự sống đích thực còn mãi. Đó chính là chất thơ trong kịch của Lưu Quang Vũ.
Từ cuộc đối thoại trên, tác giả cũng gửi gắm những quan niệm đúng đắn về hạnh phúc và về lẽ sống – chết ở đời. Con người là một thể thống nhất hồn xác phải hài hòa, không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Con người phải sống là chính mình, thật là mình, sống hòa hợp giữa hồn và xác. Đó mới là hạnh phúc!
Điều đó cũng có nghĩa là khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thể xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, và cũng không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Phải sống chân thật, sống vì mọi người vì hạnh phúc và sự tốt đẹp của con người. Đó mới là lẽ sống cao đẹp.
Màn kết của vở kịch khẳng định sự bất tử của linh hồn.
Hồn Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và hóa thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình. Cái Gái và cu Tị ăn trái na, và gieo hạt na vào đất “cho nó mọc thành cây mới ông nội tơ bảo vậy. Những cây sẽ nói nhau mà lớn khôn. Mãi mãi…”. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật của muôn đời.
Màn kết giàu chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát, lạc quan cho bi kịch đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của Chân, Thiện, Mỹ và sự sống đích thực, giàu giá trị nhân văn.
Lưu Quang Vũ không những sáng tạo lại cốt truyện dân gian mà còn kí thác vào đó triết lí nhân sinh của mình. Tác phẩm rất thành công trong việc xây dựng đối thoại, giàu kịch tính, đậm chất triết lí tạo nên chiều sâu cho vở kich. Hành động của nhân vật phù hợp với tính cách, góp phần hoàn thiện tính cách nhân vật và làm phát triển tình huống truyện. Nghệ thuật dựng cảnh, những đoạn độc thoại nội tâm sống động làm nên giá trị bất hủ của vở kịch này.
- Kết bài:
Dựa vào câu chuyện dân gian nhưng tác phẩm lại đặc ra nhiều vấn đề mới mẻ, hiện đại, có tư tưởng triết lí và nhân văn. Từ việc tắc trách của Nam Tào mà Trương Ba, một người làm vườn giỏi, giỏi cờ phải chết một cách bất ngờ đến việc hồn Trương Ba đau khổ xin với Đế Thích cho ông ta chết hẳn là một sự vận động toàn diện, thánh thiện của con người. Qua đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc thông điệp. Được sống làm người làm quý giá thật, nhưng được sống đúng là chính mình, sống trọn vẹn với giá trị vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể và tâm hồn. Con người luôn phải đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
- Phân tích màn đối thoại giữa hai nhân vật Trương Ba và Đế Thích
- Phân tích ý nghĩa đoạn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt
- Suy nghĩ về mối quan hệ giữa bên ngoài và bên trong qua vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt”