Phân tích một tác phẩm thơ (Ngữ văn 8, Cánh Diều)
1. Định hướng
1.1 Khái niệm
– Phân tích một tác phẩm thơ cũng như phân tích một tác phẩm truyện (Bài 6), đều có yêu cầu chung là chỉ ra và làm rõ những điểm nổi bật (thành công, có thể cả hạn chế) trong nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Các em cũng có thể đi sâu tìm hiểu từng vấn đề, nêu những nhận xét riêng của bản thân về tác phẩm. Tác phẩm thơ có thể là bài thơ hoặc tập thơ. Bài 7 tập trung vào việc rèn luyện phân tích một bài thơ theo các yêu cầu nêu trên.
1.2. Để viết bài văn phân tích một tác phẩm thơ, các em cần chú ý:
– Đọc kĩ tác phẩm, chú ý xác định nội dung và các yếu tố hình thức nổi bật.
– Xác định các luận điểm trong bài viết, lựa chọn các bằng chứng từ bài thơ cho mỗi luận điểm.
– Liên hệ, so sánh với các bài thơ có cùng đề tài, chủ đề, thể loại để làm sáng tỏ thêm giá trị của bài thơ được phân tích.
– Suy nghĩ, nhận xét về những thành công và hạn chế (nếu có) của bài thơ, về giá trị, sự tác động của tác phẩm đối với người đọc cũng như bản thân em.
2. Thực hành
2.1. Thực hành viết theo các bước
Đề tài (trang 48 sgk Ngữ văn 8 Tập 2): Phân tích bài thơ “Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương.
a) Chuẩn bị
Đọc kĩ đề bài, xác định yêu cầu cần thực hiện.
– Xem lại phần Kiến thức ngữ văn, đọc lại bài thơ Vịnh khoa thi Hương, chú ý đến đặc điểm của bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
– Lựa chọn một vài hình thức nghệ thuật nổi bật nhất của tác phẩm để phân tích.
b) Tìm ý và lập dàn ý
– Tìm ý cho bài viết bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi:
+ Chủ đề của bài thơ là gì?
+ Nghệ thuật trào phúng của bài thơ có gì đặc sắc?
- Việc lựa chọn từ ngữ để khắc hoạ các hình ảnh trên có gì độc đáo?
- Có thể thay bằng các từ ngữ khác được không?
- Tác giả đã vận dụng các phép đối như thế nào để nghệ thuật trào phúng được phát huy triệt để?
- Các hình thức nghệ thuật trên đã làm rõ chủ đề của bài thơ như thế nào?
– Lập dàn ý bằng cách sắp xếp các ý đã tìm được theo bố cục ba phần:
Mở bài | – Giới thiệu khái quát về bài Vịnh khoa thi Hương, tác giả và nghệ thuật trào phúng của bài thơ. |
Thân bài | – Nêu chủ đề bài thơ. – Phân tích nghệ thuật lựa chọn và xây dựng hình ảnh. Lí giải vì sao nhà thơ lại lựa chọn các hình ảnh ấy và phân tích để thấy được mục đích trào phúng. – Phân tích nghệ thuật lựa chọn ngôn từ (thống kê các từ ngữ mà tác giả lựa chọn và chỉ ra tác dụng của chúng). – Chỉ ra và phân tích tác dụng của các phép đối đã được tác giả sử dụng trong bài thơ. – Nêu lên những suy nghĩ và cảm xúc của bản thân về nội dung và nghệ thuật của bài thơ. |
Kết bài | – Khái quát, tổng hợp lại vấn đề đã được trình bày: Nội dung và một số hình thức nghệ thuật của bài thơ Vịnh khoa thi Hương đã cho thấy tài năng trào phúng bậc thầy của Trần Tế Xương. |
c) Viết
– Dựa vào dàn ý đã làm để viết bài văn phân tích một bài thơ. Trong khi viết, chú ý vận dụng cách phân tích các yếu tố hình thức của thơ.
* Bài viết mẫu tham khảo:
Phân tích bài thơ “Vịnh khoa thi hương” của Tú Xương
Tú Xương là một nhà thơ được sinh ra và lớn lên trong giai đoạn có thể nói là bi thương nhất của đất nước – nước ta bị Pháp tấn công và thống trị. Trước cảnh đất nước bị tù đày ấy, thơ của ông là một bức tranh hiện thực vừa bày tỏ sự đau xót của một người con nước Nam, đồng thời cũng tố cáo tội ác đen tối của bọn thực dân. Và “Vịnh khoa thi hương” cũng là một tác phẩm như thế.
Mở đầu bài thơ là hai câu thơ giới thiệu kì thi Hương năm ấy:
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”
Kì thi này được tổ chức một cách bình thường, cứ ba năm một lần. Nhưng điều bất thường của nó là, các thí sinh của trường Hà Nội cũng bị dồn về trường Nam Định để thi. Chỉ một từ “lẫn”, tác giả đã khéo léo nói lên tình trạng hồn loạn, bát nháo, tạp nham của khoa thi Hương năm ấy.
Và đúng là, việc thi cử ấy tạp nham thật:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
Từ “lôi thôi” được đặt lên đầu câu, nhấn mạnh vẻ lếch thếch, không gọn gàng của các vị “sĩ tử”. Bình thường, những người đi thi đều là những người đọc sách, những người luôn gọn gàng, chỉn chu. Vậy mà nay, thí sinh đi thi với vẻ xốc xếch, với lọ chai lỉnh kỉnh, không còn cái vẻ tao nhã của người đọc sách. Chỉ một đối tượng, nhưng cũng đủ để chỉ sự xuống cấp của toàn xã hội. Thí sinh không còn vẻ nho nhã trí thức thì những vị giám khảo cũng không còn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước nữa, chỉ còn cái dáng “thét loa” như ngoài chợ, mà nói thì cũng “ậm ọe” chẳng thành câu. Một lần nữa, tính từ miêu tả “ậm ọe” lại được cho lên đầu câu giống như từ “lôi thôi” ở trên để làm nổi bật lên sự bất tài của đám quan trông trường thi. Chúng chỉ là những kẻ vênh váo, dựa hơi, chẳng có tài năng cũng chẳng có thực quyền. Trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh của một trường thi nhốn nháo, quan trông thi thì luôn miệng hống hách, quát tháo, sĩ tử đi thi thì lôi thôi, lếch thếch, xiêu vẹo lều chõng lọ giấy đi thi. Thật là đáng buồn và đáng cười thay!
Trong cái nhốn nháo, tạp nham ấy, hai nhân vật “quan trọng” xuất hiện một cách hoành tráng:
“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra”
Theo như lịch sử, kì thi năm Đinh Dậu 1897 có vợ chồng toàn quyền Pháp và vợ chồng tôn công sứ Nam Định đến dự. Đang trong không khí trường thi căng thẳng, vậy mà quan sứ và vợ vẫn được đón tiếp một cách long trọng, “lọng cắm rợp trời”, mưa không đến mặt, nắng không đến đầu. Kẻ xâm lược được đón tiếp một cách tốt nhất, đặt lên một vị trí cao nhất cho thấy một thực trạng đau lòng nước ta thời bấy giờ – một xã hội mà thực dân nắm quyền và xã hội phong kiến chỉ làm bù nhìn. Ở đây, Tú Xương dùng từ vô cùng đắt, gọi “quan sứ” một cách quan trọng, nhưng lại gọi vợ chúng là “mụ đầm”. “Mụ” là một từ để chỉ người đàn bà không ra gì, là cách gọi thô tục. Tú Xương “chửi” một cách vô cùng sắc bén. Vừa châm biếm, nhưng đó cũng vừa là nỗi đau xót, căm hận của một con người phải chứng kiến cảnh nước mất nhà tan.
Trước cảnh nhốn nháo, biến chất ấy, nhà thơ đã phải thốt lên rằng:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”
Hai câu thơ vừa là lời tự vấn bản thân, cũng là tự vấn những người đồng cảnh ngộ. Có mấy người còn nghĩ đến nỗi nhục của cảnh nước mất nhà tan, mà cùng nhau đứng lên hành động? Có bao nhiêu người vẫn đang mù quáng tin vào nhà nước, tin vào chính quyền mà không chịu nhìn vào thực tế?
Thơ của Tú Xương, là sự kết hợp của cả hiện thực và trữ tình. Từ việc tả lại kì thi Hương đã thoái hóa, biến chất, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh đất nước bị tù đày, đàn áp bởi bọn thực dân, đồng thời cũng bày tỏ nỗi niềm đau xót trước cảnh nước mất nhà tan của một người, một thế hệ trí thức yêu nước trước cảnh nước mất nhà tan.
d. Kiểm tra và chỉnh sửa
Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 6, phần viết, mục d (trang 28) và đối chiếu với dàn ý đề văn đã làm ở bài này.
2.2. Rèn luyện kĩ năng phân tích tác dụng của hình thức thơ
a) Cách thức
Mỗi thể loại văn học đều có những hình thức tiêu biểu, nổi bật. Để thể hiện nội dung và cảm xúc, thơ nói chung thường sử dụng một số yếu tố hình thức như: vần, nhịp, từ ngữ, hình ảnh, các biện pháp tu từ,…
Mỗi yếu tố hình thức của văn bản thơ đều có tác dụng trong việc biểu đạt nội dung (cảm xúc, tình cảm, tư tưởng,…). Khi đọc và phân tích thơ, cần chỉ ra tác dụng của các yếu tố hình thức trong việc biểu hiện nội dung. Cần tránh việc chỉ nêu nội dung hoặc chỉ nêu hình thức, không thấy mối quan hệ của hai yếu tố ấy.
b) Bài tập(trang 50 sgk Ngữ văn 8 Tập 2):
Trong các đoạn văn dưới đây, người viết đã tập trung phân tích tác dụng của yếu tố hình thức nào của văn bản thơ
– Đoạn 1: “Trong không khi lắng sâu ấy của đất trời, một hình ảnh hiện lên: Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Ánh trăng bao phủ trùm lên cổ thụ. Ánh trăng lồng vào tán lá. Cành lá cắt ánh trăng thành những mảng trắng đen lẫn lộn, những bóng trăng và bóng cây. Hai lớp bóng ấy lại trùm lên, lồng vào khóm hoa và bóng hoa, bóng trăng, bóng cây lại in lên mặt đất. Chỉ có tối và sáng, trắng và đen loang loáng ánh bạc. Sắc màu bề ngoài mát lạnh. Mọi vật im phăng phắc. Ấy thế mà bên trong, thiên nhiên lại vận động ẩm áp vô chừng.”.
(Lê Trí Viễn)
– Đoạn 2: “Các từ láy “xao xác”, “não nùng”, “chập chờn” gợi một nỗi buồn nhẹ mà thấm, một tâm trạng quạnh hiu, xa vắng. “Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng” nhịp điệu thơ trôi nhẹ như ru hồn về một thời xa xăm. Chữ “ngày không” thật đầy sức gợi.”.
(Lê Quang Hưng)
– Đoạn 3: “Trong hai câu thực, nhà thơ dùng thủ pháp cực tả, nói quá và biếm hoạ hình ảnh sĩ tử cũng như các quan coi thi:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Với hình thức đảo ngữ, đặt tính từ “Lôi thôi” lên đầu câu, nhân vật sĩ tử “vai đeo lọ” bỗng trở thành kẻ nhếch nhác, luộm thuộm, được chăng hay chớ. Tiếp theo, việc đảo tính từ đồng thời là từ láy “Âm oe” lên trước cũng biếm hoạ ông quan coi thi “miệng thét loa” thành người ngu ngơ, ấm ở, dớ dẩn.”.
(Nguyễn Hữu Sơn)
Trả lời:
– Đoạn 1: Phân tích hình ảnh: Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
– Đoạn 2: Tác dụng của các từ láy “xao xác”, “não nùng”, “chập chờn”.
– Đoạn 3: Phân tích các phép tu từ: nói quá, đảo ngữ; cách sử dụng tính từ.