Phân tích tâm sự về thời thế của Vũ Đình Liên qua bài thơ Ông đồ
- Mở bài:
Vũ Đình Liên đến với làng thơ rất lặng lẽ nhưng không kém phần sâu sắc. Trong phong trào Thơ mới, tên tuổi ông không đình đám như Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính,.. và các tên tuổi nổi bậc khác nhưng cũng đủ để làm nên một hiện tượng khác thường.
- Thân bài:
Có người viết nghìn bài mà ngỡ như chưa hề viết. Có người viết mấy bài mà đã có thể lưu danh đến ngày sau. Bởi Vũ Đình Liên đã bắt được cái hồn của thời đại. Không cần đi quá xa vào thế giới thần tiên như Thế Lữ, hay rong ruổi trong tình yêu như Xuân Diệu, lặng ngắm một chiều hoang tàn bên mộ cũ như Chế lan Viên, đau đớn dưới trăng khuya như Hàn Mạc Tử và càng không trở về với ngày xưa diễm lệ như Trần Huyền Trân,… Vũ Đình Liên tìm về với những rung động tinh tế của chính tâm hồn mình lòng thương người và tình hoài cổ mênh mang.
Hoài Thanh có nhận xét: “Có lần hai nguồn cảm hứng ấy đã gặp nhau và để lại cho chúng ta một bài thơ kiệt tác: “Ông đồ”. Ít khi có một bài thơ bình dị mà cảm động như vậy. Tôi tưởng như đọc lời sám hối của cả bọn thanh niên chúng ta đối với lớp người đương đi về cõi chết…”
Có lẽ, trước thực tại phũ phàng, lớp trẻ năng động đã quá vội vàng lên đường tìm kiếm, khơi phá những miền đất nghệ thuật đang rộ nở muôn nơi, bỏ lại riêng ông âm thầm tìm về chốn cũ. Có thể nói thơ Vũ Đình Liên đã quá cũ so với đương thời nhưng lại có sức hút mãnh liệt khiến ai đọc tới cũng phải nao lòng.
Với bài thơ Ông đồ, Vũ Đình Liên đã may mắn đón lấy được tinh túy trên dòng chảy của thời gian bất tận. Có lẽ, ông đã chờ sẵn ở đó rất lâu và nhanh tay đón lấy khi nó vừa đến. Bài thơ ra đời năm 1937, ngay cái thời khắc phong trào Thơ mới rộ nở nhất, đẩy nền thơ cũ và thế hệ cũ vào vị trí khiêm nhường rồi biến mất sau đó. Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, và các nhà thơ khác liên tục đã phá nền thơ cũ và tạo ra cái mới, mấy ai kịp nhìn lại thế hệ cũ đã rút lui như thế nào. Chỉ có Vũ Đình Liên làm điều ấy.
Bài thơ Ông đồ là tiếng nói thẳm sâu tận đáy lòng của Vũ Đình Liên trước sự lụi tàn của một thế hệ, một tư tưởng và một nét đẹp trong tâm hồn và đời sống người Việt. Không kêu ca hay uất hận nhưng nỗi tiếc thương vô hạn ẩn sâu trong từng câu từng chữ. Hình ảnh ông đồ là chứng nhân của lịch sử, của một thế hệ những con người đang rơi dần vào sự bế tắc cùng cực với sự bế tắc của đất nước. Sự bế tắc đã dẫn ông đồ từ địa vị thanh cao, đạo mạo đến chỗ mưu sinh bằng cách bán chữ giữa sự thờ ơ, vô tình của thế gian giữa chợ đời.
Và để bấu vúi vào một cái gì đó chưa hẳn đã mất, Vũ Đình Liên đã khởi đầu bài thơ thật hào hứng:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già”.
Từ “lại” nghe thật hãnh diện, xác định ngay vị trí của ông đồ trong ngày tết. Ông đến như định mệnh và từ lâu đã in đậm trong kí ức của con người khi ngày tết đến. Và không đẻ người đọc chờ đợi lâu, Vũ Đình Liên lập tức triển khai hình tường, phô bày trước mắt người đọc:
“Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”.
Đọc lại câu thơ, ta như thấy trước mắt mình cái cảnh nhộn nhịp, cấp tập không ngừng của ngày tết xưa. Đâu đây là tiếng gọi nhau thăm hỏi, đâu đó là tiếng chào mời đón đưa của muôn người. Và ông đồ trên các góc phố, dưới tán cây che, chân dậm giấy, tay đưa nét bút thần kì như “phượng múa rồng bay” trước sự trầm trồ, thán phục của bao người.
Thế nhưng, sự đời đưa đẩy, số phận nổi trôi, đời người ngắn ngủi mà phong ba bão tố nhanh chóng càn quét qua đây. Năm sau trở lại, hình ảnh ông đồ vẫn trên phố cũ mà sao xa khác vô cùng:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực động trong nghiên sầu”.
Từ một khung cảnh náo nhiệt, trong sự tôn vinh tột độ, đột nhiên ông đồ rơi vào nghịch cảnh đáng thương. Vẫn là sân khấu ấy nhưng ông đồ đã mất hết người xem, một mình độc diễn vở kịch buồn.
Dường như Vũ Đình Liên đã cảm nhận thấy, đã dẫm lên cái đường ranh mong manh, mơ hồ mà tàn nhẫn của thời gian giữa thời đại cũ và thời đại mới. Ông đồ gắng gượng núi kéo cái tinh hoa một thời trong lòng người một cách bất lực nhưng không từ bỏ. Ở đây, dẫu chưa đạt đến trình độ đưa “cái thần” vào chữ viết như một tay tử tù của thời vang bóng, ít ra ông đồ cũng còn lại những ngón tay hoa.
Trên bước đường cùng với chút tài mọn tuy có lỡ làng, ông đồ ngỡ vẫn còn một góc đời riêng nhằm an bần lạc đạo hoặc thậm chí để ngậm ngùi! Và chính sự gắng gượng cuối cùng ấy lại đẩy ông đồ vào một tình thế dở khóc dở cười:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay”.
Câu thơ rơi vào im lặng đáng sợ khiến người đọc hụt hẫng tiếc thương. Cơn mưa phủ xuống tâm hồn, che lại những vết thương đang âm ỉ cào cấu trong lòng. Đến đây, người đọc mới sực tỉnh nhận ra trong mình đã đánh mất đi tình yêu đối với cái quốc hồn quốc túy và vô tình đẩy một thế hệ như ông đồ vào nghịch cảnh bi đát ấy. Một thời đại sáng bừng hào khí “nghiêng cánh nhạn tách mái rừng Nhan Khổng – Vẫy đuôi kình toan vượt bể Trình Chu” đang le lói những tia sáng cuối cùng trước khi đi vào im lặng. Và cuối cùng là im lặng thực sự:
“Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bầy giờ?”.
Vũ trụ tuần hoàn, vòng sinh diệt bất tận càn quét trên mặt đất này. Những gì còn lại là sự gạn lọc tàn nhẫn của thời gian. Khung cảnh vẫn thế không có gì đổi thay, ngày tết vẫn tưng bừng rộn rã, hoa đào vẫn nở, người vẫn du xuân trẩy hội, nhưng nhân vật chính của ngày xưa đã mãi mãi không đến nữa. Câu thơ “Năm nay đào lại nở” biểu hiện cái quy luật tàn nhẫn như nụ cười chua chát của nhà thơ ném vào cuộc đời. Câu thơ theo sau đó như uất nghẹn trước tin dữ :“Không thấy ông đồ xưa” khép lại một cơn mê, để rồi nhà thơ truy vấn:
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bầy giờ?”.
Ở đâu là ở đâu? Những người trong thế hệ cũ óc thể ở đâu được? Hoặc là họ chấp nhận chuyển mình, bỏ khăn đóng áo dài khoát vào bộ đồ tây kịch cỡm, cắt tóc ngắn, “tối rượu sâm banh sáng sữa bò” để hòa hợp với cái thời đại nửa tây nửa ta ấy. Hoặc là tiếp tục giữ nguyên lối cũ sống lay lắt với thời gian.
- Kết bài:
Vũ Đình Liên đã không thể trả lời. Ông gửi niềm ưu tư ấy vào thời gian và mong tìm kiếm một sự đồng cảm ở người đọc. Ông đau đáu nhìn vào dòng đời đang trôi chảy như một kẻ mất hồn mong tìm thấy bản thể. Cũng cảnh cũng người nhưng người và cảnh đâu dễ thành thơ, nếu nhà thơ không là kẻ tri âm hay đồng điệu.