Cảm nhận 24 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
- Mở bài:
Việt Bắc là khúc ca hào hùng và cảm động về nghĩa tình của nhân dân đồng bào Việt Bắc đối với các bộ kháng chiến. Bằng việc thể hiện nỗi niềm tâm trạng người ở lại trong sự thấu hiểu, đồng cảm, đồng vọng của người ra đi, qua đó nhà thơ đã khẳng định tình cảm son sắt của người dân Việt Bắc với kháng chiến cũng như sự thủy chung của những người kháng chiến với quê hương cách mạng:
– Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
– Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
– Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
- Thân bài:
Bài thơ “Việt Bắc” sáng tác sau khi chiến thắng thực dân Pháp, tác giả muốn gợi lại tình quân dân thắm thiết, ân tình và sâu nặng trong cuộc kháng chiến. Bài thơ được viết theo thể đối đáp càng gợi lên sự bình dị, ấm áp và than quen đến lạ lùng. Tác phẩm được viết theo thể lục bát tạo nên âm hưởng nhẹ nhàng, trầm bổng mà lắng sâu trong lòng người đọc. Đây chính là một sự khéo léo tạo nên thành công của bài thơ chính trị mà trữ tình, dạt dào cảm xúc này.
Tác giả mở đầu bằng sự nuối tiếc, quyến luyến, bịn rịn của người ở lại và kẻ ra đi trong một khung cảnh tràn đầy nhớ thương. Bốn câu thơ mở đầu là khúc dạo đầu ân tình chung thủy và niềm trăn trở nhớ thương của người ở lại với người ra đi. Sự nuối tiếc, quyến luyến, bịn rịn của người ở lại và kẻ ra đi trong một khung cảnh tràn đầy nhớ thương được thể hiện qua hàng loạt câu hỏi:
“- Mình về mình có nhớ ta ?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không ?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”.
“Mình” và “ta” là những đại từ nhân xưng quen thuộc trong ca dao xưa, là cách xưng hô bình dị, thương mến vô cùng của tình yêu đôi lứa. Hai câu hỏi trong đoạn mở đầu đã gợi nhắc tới những câu ca dao nói về cảnh chia tay bịn rịn nhớ nhung của lứa đôi : Mình về có nhớ ta chăng – ta về ta nhớ hàm răng mình cười, hay mình về ta chẳng cho về – ta nắm vạt áo ta đề câu thơ; mình về ta dặn câu này – dặn dặm câu nhớ, dặn vài câu thương; mình về có nhớ ta chăng – ta như lạt buộc khăng khăng nhớ mình.
Tố Hữu đã mượn một hình thức ngôn từ quen thuộc của văn hóa dân gian để gửi gắm những nội dung tình cảm lớn lao của thời đại mới; những câu ca ngọt ngào của tình yêu đã trở thành những câu hỏi xao xuyến của nghĩa tình cách mạng, thể hiện nỗi nhớ nhung của người ở lại với người về xuôi. Đoạn thơ sử dụng phép lặp quen thuộc trong ca dao xưa khiến nỗi nhớ trở nên miên man, da diết không thể ngui ngoai; cũng đồng thời tạo nên âm hưởng day dứt, trăn trở góp phần thể hiện một trong những cảm hứng chủ đạo của bài thơ: liệu những người chiến thắng có giữ được tấm lòng chung thủy, có mãi nhớ tất cả những gì đã góp phần làm nên chiến thắng?
Hai câu thơ lục bát có tới 4 chữ mình và chỉ có 1 chữ ta. Tương quan ngôn từ ấy đã đem lại cảm giác hình ảnh người ra đi tràn ngập không gian, đầy ắp trong nỗi nhớ của người ở lại, cũng đồng thời gợi một chút đơn côi, lặng thầm cho hình ảnh người ở lại nơi núi rừng hoang vắng, hắt hiu. Nỗi niềm người ở lại được thể hiện trước hết trong câu hỏi hướng về thời gian:
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Trong tiếng Việt, đại từ ấy luôn khiến những danh từ chỉ thời gian đứng trước nó bị đẩy về một quá khứ thật xa xăm, trở thành khoảng thời gian gợi nỗi nhớ thương, ngậm ngùi, tiếc nuối. Câu thơ cũng đồng thời gợi liên tưởng đến câu Kiều đằm thắm về mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình – một liên tưởng thấm thía cảm động bởi sự gợi nhắc tình sâu nghĩa nặng giữa Việt Bắc và những người kháng chiến. Trong câu thơ của Việt Bắc, mười lăm năm ấy là khoảng thời gian từ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh (1941-1945), và sau đó là những năm tháng kháng chiến chống Pháp (1946-1954), là khoảng thời gian Việt Bắc trở thành căn cứ địa của cách mạng, trở thành Thủ đô gió ngàn, đó là thời gian mà ta và mình từng gắn bó, chia ngọt sẻ bùi với biết bao nhiêu tình sâu nghĩa nặng, biết bao nhiêu thiết tha mặn nồng.
Nếu câu hỏi thứ nhất “Mình về mình có nhớ ta?” làm xao xuyến lòng người khi phảng phất bóng dáng những câu ca về tình yêu thì câu hỏi thứ hai “Mình về mình có nhớ không?” lại khiến người nghe trăn trở suy ngẫm về sự tha thiết, nghiêm nghị trong giọng điệu thơ. Câu thơ này hướng tới không gian:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”
Hai vế của câu thơ đan xen những hình ảnh của cả miền xuôi như cây, sông và miền núi như núi, nguồn. Hoàn cảnh chia xa, nỗi nhớ và sự gắn bó khăng khít đã hiện ngay trong cả chia tách và đan xen hòa quyện của ngôn từ. Nhìn cây, nhìn sông là những hình ảnh nhắc tới một thực tế chắc chắn trong tương lai khi người kháng chiến đã về xuôi, đã sống với quê hương, với đồng bằng, vì thế cũng có thể coi là biểu tượng cho việc trở về của người kháng chiến với chốn đô hội phồn hoa; còn nhớ núi, nhớ nguồn là để tâm hồn trở về với quá khứ, với Việt Bắc
Câu thơ thể hiện mối tương quan giữa thực tế và mong đợi khiến những vế câu như tiềm ẩn một chữ có trăn trở: nhìn cây có nhớ núi, nhìn sông có nhớ nguồn, về xuôi rồi có còn nhớ Việt Bắc…? Trong câu hỏi thứ hai, bên cạnh nỗi nhớ nhung, niềm trăn trở của người ở lại, ý thơ là đem đến những suy ngẫm sâu xa về nghĩa tình, đạo lí, cội nguồn chung thủy, về nét đẹp trong đời sống tinh thần của một dân tộc luôn nhắc nhau : uống nước nhớ nguồn. Đây cũng là một lẽ sống cao cả, một tình cảm lớn đã nhiều lần xuất hiện trong thơ Tố Hữu (Ngọt bùi có nhớ lúc đắng cay – Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm).
Bốn câu tiếp là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi lưu luyến nhớ nhung của người đi kẻ ở:
“- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Câu thơ đầu nhắc tới “Tiếng ai tha thiết bên cồn” cho thấy những nhớ nhung xao xuyến, những day dứt trăn trở trong lòng người ở lại đã được người ra đi thấu hiểu, cảm nhận. “Ai” chính là người ở lại, nhưng tính chất phiếm chỉ đã đem lại cảm giác những câu hỏi tha thiết ở bốn câu đầu. Đó là tiếng của ai đó chưa nhìn rõ mặt, mới chỉ như những âm thanh vọng từ cỏ cây, núi rừng Việt Bắc, là tiếng lòng của người ở lại, tuy nhiên, sự tri âm tri kỉ, đồng thanh tương ứng đã khiến họ thấu hiểu lòng nhau. Người ở lại thiết tha, người ra đi thiết tha, hô ứng, đồng cảm, đồng vọng.Những âm thanh ấy cứ quấn quýt, vương vấn theo từng bước chân khiến người đi: “Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”
Sự đăng đối trong hai vế câu thơ đã góp phần thể hiện sự đăng đối đồng điệu trong cảm xúc con người. Bâng khuâng là từ láy gợi ra những trạng thái cảm xúc mơ hồ khó tả bởi sự đan xen buồn vui, luyến tiếc, nhớ nhung khiến con người như ngơ ngẩn. Bồn chồn là tâm trạng thấp thỏm nôn nao khiến con người không yên, tuy cũng là từ láy miêu tả trạng thái cảm xúc nhưng bồn chồn nhiều khi không dừng lại ở những nỗi niềm trong tâm tưởng mà còn có thể ngoại hiện trong ánh mắt, dáng vẻ, hành động… vì thế, câu thơ không chỉ thể hiện nỗi bịn rịn , nhớ nhung trong lòng mà còn gợi tả cả những bước chân ngập ngừng, lưu luyến của người đi.
Trong giờ phút chia li, nếu tiếng ai là những âm thanh mơ hồ vì thực ra nó là tiếng lòng người ở lại, là tiếng vọng từ trong tâm tưởng, trong cảm nhận của người ra đi thì hình ảnh chiếc áo chàm lại cụ thể đến nao lòng: “Áo chàm đưa buổi phân li”. Đây là biểu tượng đơn sơ mà xúc động về những người dân Việt Bắc nghèo khổ, nghĩa tình. Sắc áo chàm có thể nhòa mờ trong khói sương rừng núi nhưng sẽ vĩnh viễn in đậm trong nỗi nhớ thương của người về xuôi. Hình ảnh hoán dụ về chiếc áo chàm vừa gợi ra trang phục đặc trưng của người Việt Bắc vừa khắc họa tính cách mộc mạc, tấm lòng son sắt của họ với cách mạng, với kháng chiến. Câu thơ đồng thời cho thấy sự xót xa và niềm cảm phục, thương mến của người đi với những người Việt Bắc.
Những nỗi niềm lưu luyến trong cảnh chia tay được thể hiện rõ nét trong cử chỉ cầm tay nhau chứa chan ân tình xúc động; trong sự lặng im vì biết nói gì hôm nay, khi mọi lời nói đều bất lực, đều không thể diễn tả những nỗi niềm đang dâng trào mãnh liệt; sự ngập ngừng đặc biệt hiện ra trong nhịp thơ 3/3/2 bồn chồn day dứt thay thế cho nhịp chẵn êm đềm thông thường của thể thơ lục bát: “Cầm tay nhau, biết nói gì hôm nay”
Đoạn thơ đã miêu tả cảnh chia tay giữa người dân Việt Bắc với những người kháng chiến từ nỗi bâng khuâng trong tâm trạng, sự ngập ngừng mỗi bước chân đi, cử chỉ cầm tay nhau thân thương, trìu mến cho đến cả sự im lặng không lời đầy cảm xúc…bốn câu thơ vừa là sự đồng vọng, nhớ nhung của người về xuôi với người ở lại, vừa tái hiện cảnh tiễn đưa bịn rịn, lưu luyến sâu nặng nghĩa tình trong ngày chiến thắng.
Những nỗi niềm băn khoăn trăn trở của người ở lại tiếp tục thể hiện trong 6 câu hỏi của đoạn thơ tiếp theo:
“- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già?
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son?
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh?
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Nếu hai câu hỏi ở phần đầu mới chỉ gợi ra hình ảnh khái quát của quá khứ mười lăm năm ấy với những gắn bó thiết tha, của chiến khu Việt Bắc với núi với nguồn thân thuộc thì những câu hỏi trong đoạn thơ sau đã hướng tới những kỉ niệm thật cụ thể, xúc động. Đoạn thơ gồm 6 câu hỏi của người ở lại với người ra đi, những câu hỏi dồn dập, gấp gáp bởi nỗi nhớ trào dâng khi giờ phút chia tay đang đến gần.
Sự đắp đổi nhịp nhàng trong điệp ngữ ở các câu 6 mình đi có nhớ…mình về có nhớ…; sự đăng đối trong 2 vế của các câu 8 với nhịp 4/4, đó là những yếu tố tạo nên nhịp điệu ngân nga, dìu dặt ngọt ngào cho đoạn thơ. Nhịp điệu trữ tình ấy đã góp phần thể hiện sự tinh tế nỗi vấn vương xao xuyến giăng mắc trong lòng kẻ ở lẫn người đi kể từ đó, quá khứ đầy ắp những kỉ niệm ngọt ngào trở về.
Trong những lời nhắc nhở da diết của người ở lại với người ra đi, Việt Bắc hiện lên thật sống động từ những khắc nhiệt của thiên nhiên với mưa nguồn, suối lũ, lau xám, mây mù…tới cuộc sống kháng chiến gian khổ, thiếu thốn với miếng cơm chấm muối, từ những trang sử hào hùng khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh tới những sự kiện trọng đại của cách mạng và kháng chiến nơi Tân Trào, Hồng Thái…
Những câu hỏi tha thiết của người ở lại đã làm rõ cội nguồn tạo nên sự gắn bó sâu nặng giữa mình và ta, giữa đồng bào Việt Bắc và những người kháng chiến. Họ đã cùng nhau chia sẻ từ những gian khổ thiếu thốn khi nhường nhau miếng cơm chấm muối đến những tâm tư nỗi niềm khi chung nhau mối thù nặng vai; họ đã sát cánh bên nhau trong những năm tháng ác liệt hào hùng từ thời mặt trận Việt Minh tới 9 năm kháng chiến chống Pháp…sự chia sẻ trong quá khứ tạo nên sự gắn bó trong hiện tại và nghĩa tình thủy chung trong tương lai. Gian truân vất vả chỉ càng làm ngời lên vẻ đẹp trong tâm hồn của những người dân Việt Bắc nghèo khổ mà sắc son, trung hậu, nghĩa tình, một lòng với cách mạng và kháng chiến. Những gắn bó ân tình suốt 15 năm ấy đã làm tăng thêm nỗi nhớ nhung và cảm giác chống vắng cho núi rừng khi chia biệt:
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.”
Câu 6 vẫn mang hình thức của một câu hỏi nhưng không dùng để hỏi người đi mà chỉ để thể hiện nỗi lòng người ở lại. Rừng núi là hoán dụ cho người dân Việt Bắc ở lại nơi rừng xanh núi đỏ heo hút, hoang sơ, ai chính là mình, người ra đi. Nỗi nhớ nhung và một chút mặc cảm ngậm ngùi được bộc lộ gián tiếp qua cách nói tránh và cấu trúc câu nghi vấn khiến ý thơ càng thêm xao xuyến. Tính chất phiếm chỉ khiến hình ảnh người đi càng trở nên xa xôi hơn trong ánh mắt nhớ nhung của những người dân Việt Bắc mộc mạc, chân thành.
Câu 8 gồm 2 vế đối xứng nhắc đến trám rừng và măng mai là những sản vật quen thuộc và quý giá của núi rừng. Phép điệp trong cấu trúc để rụng…để già gợi nên hình ảnh cuộc sống như ngưng trệ, núi rừng như hoang phế sau lưng người đi cùng cảm giác buồn bã, hụt hững, trống trải trong lòng người ở lại. Dường như sau khi người ra đi, trám bùi trên cây không ai hái, rụng xuống đất không ai nhặt, măng mai để già hoang phí giữa rừng sâu – người ra đi đã để lại một khoảng trống mênh mông trong lòng người Việt Bắc giữa heo hút núi rừng. Sự gắn bó khiến họ thêm hiểu nhau, thêm thương cảm và trân trọng.
Câu hỏi: “Mình đi có nhớ những nhà. Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” là một lời nhắc nhở cảm động với người ra đi: xin đừng bao giờ quên những con người nghèo khổ mà son sắc kiên trung, một lòng đi theo cách mạng và kháng chiến. Phép tương phản trong 2 tiểu đối của câu 8 đã trở thành những nét khắc họa đặc trưng nhất cho cuộc sống và con người Việt Bắc. Hắt hiu lau xám vừa là hình ảnh thực gợi tả không gian hoang vắng, tiêu sơ, buồn bã của núi rừng, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ cho cuộc sống nghèo khổ của nhân dân nơi đây. Nhà là hoán dụ cho con người, đậm đà lòng son là những hình ảnh ẩn dụ ca ngợi tấm lòng trung hậu, nghĩa tình của những người dân Việt Bắc nghèo khổ. Và có lẽ chính màu lau xám hắt hiu của núi rừng càng làm đậm thêm những tấm lòng son sắt, thủy chung.
Câu thơ “Mình đi, mình có nhớ mình” có nhiều cách hiểu căn cứ vào những nét khác nhau của từ mình ở cuối câu thơ. Có thể hiểu chữ mình ấy là ta – người ở lại, khi ấy, câu hỏi sẽ xao xuyến một nỗi nhớ nhung, day dứt một niềm trăn trở: mình về mình có nhớ ta – mình đi, mình có còn nhớ đến ta không, đây cũng là nỗi niềm da diết trong suốt bài thơ. Cách hiểu cho thấy sự hòa nhập gắn kết thật đằm thắm giữa ta và mình, tuy hai mà một, không thể chia xa, không thể tách lời.
Lại cũng có thể hiểu mình là người ra đi. Và khi ấy, câu hỏi sẽ là một lời nhắc nhở tha thiết, sâu xa và nghiêm nghị: mình đi, mình có nhớ và có giữ được mãi là con người mình khi xưa ấy, con người mà ta đã yêu mến, trân trọng, nhớ thương; có mãi còn là con người bất khuất, nghĩa tình thủy chung nhân hậu đã sát cánh bên ta trong kháng chiến, đã cùng ta chia ngọt sẻ bùi trong suốt mười lăm năm ấy? Câu hỏi vì thế cũng trở thành lời nhắc: Đừng đánh mất chính con người mình trong cuộc sống phồn hoa đô hội, đừng bao giờ quên mảnh trăng giữ rừng khi đã trở về với ánh đèn thành phố, đừng bao giờ quên những năm tháng kháng chiến gian khổ, hào hùng khi trở về với cuộc sống hòa bình!
Sau câu hỏi “Mình đi, mình có nhớ mình”, câu 8 khẳng định lại một lần nữa tấm lòng gắn bó sắc son của Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, lí do của tình yêu, nỗi nhớ và đạo lí thủy chung trong lòng người đi:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”.
Câu thơ đã được nhà thơ gửi gắm những tầng nghĩa sâu sắc khi mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào được tách ra trong 2 vế với những tập hợp ngôn từ mới mẻ. Vế thứ nhất là 2 danh từ riêng: Tân Trào, Hồng Thái, đó là những địa danh gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc và kháng chiến: Đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân đại hội tháng 8-1945, thành lập ủy ban dân tộc giải phóng và phát lệnh Tổng khởi nghĩa; bên gốc đa Tân Trào, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã là lễ xuất phát chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa. Vế sau là 2 danh từ chung trong đó mái đình cây đa chính là những hình ảnh bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam, là nơi tụ họp, hẹn hò, là không gian gần gũi thân yêu với cả cộng đồng và đôi lứa.
Hai tiểu đối trong câu thơ đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người dân với cách mạng và kháng chiến: Khi Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, khi người dân Việt Bắc một lòng đi theo cách mạng thì những sự kiện lớn lao của cách mạng sẽ trở thành sự quan tâm sâu sắc, thiêng liêng, thành những tâm tư sâu nặng trong lòng người; những địa danh gắn với các sự kiện quan trong của cách mạng và kháng chiến cũng trở nên gần gũi như cây đa, bến nước, con đò, tình cảm của người dân Việt Bắc dành cho những người kháng chiến cũng trở nên thân yêu như tình làng nghĩa xóm hay tình yêu đôi lứa…
Có thể nhận ra ngôn ngữ giao đối trong đoạn thơ đầu, khi sau những câu hỏi trăn trở của người ở lại là những đồng vọng xao xuyến của người ra đi. Và bây giờ, sau rất nhiều những câu hỏi băn khoăn, nhớ nhung của người Việt Bắc, 4 câu cuối của đoạn thơ tiếp tục khẳng định nỗi nhớ, sự thủy chung son sắt của người ra đi từ biệt quê hương cách mạng về xuôi.
Câu thơ đầu gồm hai tiểu đối trong đó nhà thơ sử dụng phép lặp đan xen giữa ta – mình cùng từ với như một thứ keo gắn kết Ta với mình, mình với ta. Kết cấu ngôn ngữ đặc sắc ấy đã gợi tả sự quấn quýt, giao hòa giữa người đi, kẻ ở khăng khít không thể tách rời. Sau câu thơ thể hiện sự gắn bó thân thiết giữ mình và ta là một lời khẳng định sắt son của người ra đi: “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”.
Nghĩa tiếng Hán của cụm từ sau trước chính là thủy chung, sống có trước có sau là đạo lí thủy chung truyền thống của người Việt Nam từ bao đời nay. Nhưng với những ý nghĩa của cụm từ sau trước, ý nghĩa thơ không chỉ khẳng định sự thủy chung mà còn lí giải sự thủy chung một cách sâu xa, thuyết phục. Sau trước còn gợi một khoảng thời gian dài từ trước đến sau, từ quá khứ qua hiện tại đến tương lai, thức lâu mới biết đêm dài, thời gian khiến con người thêm hiểu lòng nhau.
Khi đã có những năm tháng gắn bó trong quá khứ, khi cùng nhau chung vai gánh vác những khó khăn gian khổ, cùng nhau chia sẻ những tâm tình, tình cảm giữa họ thêm mặn mà, đằm thắm; đinh ninh là chắc chắn, là không quên, không đổi, tình cảm đã mặn mà trong quá khứ sẽ mãi bền chặt theo thời gian, không bao giời nhạt phai, thay đổi. Hai câu cuối như một lời thề chung thủy:
“Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
Nếu người ở lại băn khoăn trăn trở trong một câu hỏi hàm chứa bao ý nghĩa sâu xa: Mình đi, mình có nhớ mình thì người đi cũng trả lời trong một sự hô ứng, đồng vọng, đồng cảm: Mình đi mình lại nhớ mình. Vẫn là cách sử dụng tinh tế đại từ mình ở cuối câu thơ với nhiều nét nghĩa: Nếu hiểu mình là người ở lại, câu trả lời của người đi thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của những con người có sự gắn bó, hòa nhập sâu sắc bởi ta với mình tuy một mà hai; nếu hiểu mình là người đi, câu thơ sẽ là lời khẳng định: Ánh đèn thành phố và cuộc sống hòa bình sẽ không bao giờ có thể khiến người trở về quên vầng trăng tình nghĩa, không bao giờ quên quá khứ đẹp đẽ, nghĩa tình, càng không bao giờ đánh mất chính mình, không bao giờ phụ tình yêu thương của Việt Bắc
Câu 8 xuất hiện một hình ảnh so sánh phảng phất phong vị ca dao đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu. Hình ảnh Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu trước hết đã nhấn mạnh sắc thái và mức độ của nỗi nhớ. Nỗi nhớ vốn là một khái niệm trìu tượng, nay được cụ thể hóa, được định lượng hiện hữu như nước trong nguồn, đầy ắp, lặng thầm và vô tận; sau nữa, hình ảnh nước trong nguồn còn gợi những suy ngẫm sâu xa về nguồn cội, về đạo lí thủy chung tình nghĩa “Uống nước nhớ nguồn”, hình ảnh so sánh trong câu thơ còn như thầm đáp lại sự trăn trở của Việt Bắc:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Đây là cuộc chia tay mang ý nghĩa lịch sử, cuộc chia tay giữa những người đã từng gắn bó dài lâu, đầy tình nghĩa sâu nặng, mặn nồng, từng chia sẻ mọi đắng cay, ngọt bùi, nay trong giờ phút chia tay, cùng nhau gợi lại bao kỉ niệm đẹp đẽ, cùng cất lên nỗi hoài niệm tha thiết về những ngày đã qua, khẳng định nghĩa tình bền chặt và hẹn ước trong tương lai. Để thể hiện tình cảm thiết tha và sâu nặng ấy, Tố Hữu đã vận dụng lời đối đáp gần gũi, thân thuộc như trong ca dao, dân ca, thắm đượm nghĩa tình của dân tộc. Bài thơ vì thế mà như lời tâm tình chan chứa yêu thương của những người yêu nhau.
Trong đối đáp Tố Hữu sử dụng đại từ “mình” – “ta” với ý nghĩa vừa là ngôi thứ nhất, vừa là ngôi thứ hai. Tình cảm chan chứa yêu thương vì thế mà như được nhân lên. Chuyện nghĩa tình cách mạng, kháng chiến đến với lòng người bằng con đường của tình yêu.
- Kết bài:
Nhìn sâu hơn vào kết cấu 24 câu thơ đầu bài thơ “Việt Bắc” thì đối thoại chỉ là lớp kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại của chính nhân vật trữ tình đang đắm mình trong hoài niệm về quá khứ gian khổ mà tươi đẹp ấm áp nghĩa tình, nghĩa tình nhân dân, nghĩa tình kháng chiến và cách mạng, khát vọng về tương lai tươi sáng. Kẻ ở – người đi; lời hỏi – lời đáp có thể xem là sự phân thân để tâm trạng được bộc lộ đầy đủ hơn trong sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân.
Bài tham khảo:
Phân tích 24 câu thơ đầu bài thơ “Việt Bắc”
- Mở bài:
24 câu thơ đầu bài thơ “Việt Bắc” là nỗi niềm tâm trạng người ở lại trong sự thấu hiểu, đồng cảm, đồng vọng của người ra đi, qua đó nhà thơ đã khẳng định tình cảm son sắt của người dân Việt Bắc với kháng chiến cũng như sự thủy chung của những người kháng chiến với quê hương cách mạng.
- Thân bài:
Bốn câu thơ đầu là khúc dạo đầu ân tình thủy chung và niềm trăn trở nhớ thương của người ở lại với người ra đi.
– Nội dung chủ yếu của hai cặp câu lục bát này chính là những nỗi niềm da diết được thể hiện trong hai câu hỏi:
“- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”.
“Mình” và “ta” là những đại từ nhân xưng quen thuộc trong ca dao xưa, là cách xưng hô bình dị, thương mến vô cùng của tình yêu đôi lứa. Hai câu hỏi trong đoạn mở đầu đã gợi nhắc tới những câu ca dao nói về cảnh chia tay bịn rịn nhớ nhung của lứa đôi: “Mình về có nhớ ta chăng – Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”, hay “Mình về ta chẳng cho về – Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ”; “Mình về ta dặn câu này – Dặn dăm câu nhớ, dặn vài câu thương”; “Mình về có nhớ ta chăng – Ta như lạt buộc khăng khăng nhớ mình”.
Tố Hữu đã mượn một hình thức ngôn từ quen thuộc của văn hóa dân gian để gửi gắm những nội dung tình cảm lớn lao của thời đại mới; những câu ca ngọt ngào của tình yêu đã trở thành những câu hỏi xao xuyến của nghĩa tình cách mạng, thể hiện nỗi nhớ nhung của người ở lại với người về xuôi.
Đoạn thơ sử dụng phép lặp quen thuộc trong ca dao xưa khiến nỗi nhớ trở nên miên man, da diết, không thể nguôi ngoai; cũng đồng thời tạo nên âm hưởng day dứt, trăn trở góp phần thể hiện một trong những cảm hứng chủ đạo của bài thơ: liệu những người chiến thắng có giữ được tấm lòng chung thủy, có mãi nhớ tất cả những gì đã góp phần làm nên chiến thắng?
Hai câu thơ lục bát có tới 4 chữ “mình” và chỉ có một chữ “ta”. Tương quan ngôn từ ấy đã đem lại cảm giác hình ảnh người ra đi tràn ngập không gian, đầy ắp trong nỗi nhớ của người ở lại, cũng đồng thời gợi một chút đơn côi, lặng thầm cho hình ảnh người ở lại nơi núi rừng hoang vắng, hắt hiu….
Nỗi niềm người ở lại được thể hiện trước hết trong câu hỏi hướng về thời gian:
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Trong tiếng Việt, đại từ “ấy” luôn khiến những danh từ chỉ thời gian đứng trước nó bị đẩy về một quá khứ thật xa xăm, trở thành khoảng thời gian gợi nỗi nhớ thương, ngậm ngùi, tiếc nuối. Trong câu thơ của “Việt Bắc”, “mười lăm năm ấy” là khoảng thời gian từ “khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh” (1941-1945), và sau đó là những năm tháng kháng chiến chống Pháp (1946-1954), là khoảng thời gian Việt Bắc trở thành căn cứ địa của cách mạng, trở thành Thủ đô gió ngàn, đó là thời gian mà “ta” và “mình” từng gắn bó, chia ngọt sẻ bùi với biết bao nhiêu tình sâu nghĩa nặng, biết bao nhiêu “thiết tha mặn nồng”.
Nếu câu hỏi thứ nhất “Mình về mình có nhớ ta?” làm xao xuyến lòng người khi phảng phất bóng dáng những câu ca về tình yêu thì câu hỏi thứ hai “Mình về mình có nhớ không?” lại khiến người nghe trăn trở suy ngẫm vì sự tha thiết, nghiêm nghị trong giọng điệu thơ. Câu hỏi thứ hai này hướng tới không gian:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Hai vế của câu thơ đan xen những hình ảnh của cả miền xuôi như “cây”, “sông” và miền núi như “núi”, “nguồn”. Hoàn cảnh chia xa, nỗi nhớ và sự gắn bó khăng khít đã hiện ngay trong cả chia tách và đan xen hòa quyện của ngôn từ.
“Nhìn cây”, “nhìn sông” là những hình ảnh nhắc tới một thực tế chắc chắn trong tương lai khi người kháng chiến đã về xuôi, đã sống với quê hương, với đồng bằng, vì thế cũng có thể coi là biểu tượng cho việc trở về của người kháng chiến với chốn đô hội phồn hoa; Còn “nhớ núi”, “nhớ nguồn” là để tâm hồn trở về với quá khứ, với Việt Bắc, điều này có xảy ra hay không còn tùy thuộc vào sự thủy chung của người ra đi. Câu thơ thể hiện mối tương quan giữa thực tế và mong đợi khiến những vế câu như tiềm ẩn một chữ “có” trăn trở: nhìn cây có nhớ núi, nhìn sông có nhớ nguồn, về xuôi rồi có còn nhớ Việt Bắc…?
Trong câu hỏi thứ hai, bên cạnh nỗi nhớ nhung, niềm trăn trở của người ở lại, ý thơ còn đem đến những suy ngẫm sâu xa về nghĩa tình, đạo lí, về cội nguồn chung thủy, về nét đẹp trong đời sống tinh thần của một dân tộc luôn nhắc nhau: uống nước nhớ nguồn. Đây cũng là một lẽ sống cao cả, một tình cảm lớn đã nhiều lần xuất hiện trong thơ Tố Hữu (Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay – Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm).
Bốn câu tiếp theo là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi lưu luyến nhớ nhung của người đi, kẻ ở:
“- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay… “
Câu thơ đầu nhắc tới “Tiếng ai tha thiết bên cồn” cho thấy những nhớ nhung xao xuyến, những day dứt trăn trở trong lòng người ở lại đã được người ra đi thấu hiểu, cảm nhận. “Ai” chính là người ở lại, nhưng tính chất phiếm chỉ đã đem lại cảm giác những câu hỏi tha thiết ở 4 câu đầu là tiếng của ai đó chưa nhìn rõ mặt, mới chỉ như những âm thanh vọng từ cỏ cây, núi rừng Việt Bắc, là “tiếng lòng” của người ở lại, tuy nhiên, sự tri âm tri kỉ, “đồng thanh tương ứng” đã khiến họ thấu hiểu lòng nhau, người ở lại “thiết tha”, người ra đi “tha thiết”, hô ứng, đồng cảm, đồng vọng.
Những âm thanh ấy cứ quấn quít, vương vấn theo từng bước chân khiến người đi: “Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”. “Bâng khuâng” là từ láy gợi ra những trạng thái cảm xúc mơ hồ khó tả bởi sự đan xen buồn vui, luyến tiếc, nhớ nhung khiến con người như ngơ ngẩn. “Bồn chồn” là tâm trạng thấp thỏm nôn nao khiến con người không yên, tuy cũng là từ láy miêu tả trạng thái cảm xúc nhưng “bồn chồn” nhiều khi không dừng lại ở những nỗi niềm trong tâm tưởng mà còn có thể ngoại hiện trong ánh mắt, dáng vẻ, hành động… Bởi thế, câu thơ không chỉ thể hiện nỗi bịn rịn, nhớ nhung trong lòng mà còn gợi tả cả những bước chân ngập ngừng, lưu luyến của người đi.
Trong giờ phút chia li, nếu “tiếng ai” là những âm thanh mơ hồ vì thực ra nó là tiếng lòng người ở lại, là tiếng vọng từ trong tâm tưởng, trong cảm nhận của người ra đi thì hình ảnh chiếc “áo chàm” lại cụ thể đến nao lòng: “Áo chàm đưa buổi phân li”. Đây là biểu tượng đơn sơ mà xúc động về những người dân Việt Bắc nghèo khổ, nghĩa tình. Sắc áo chàm có thể nhòa mờ trong khói sương rừng núi nhưng sẽ vĩnh viễn in đậm trong nỗi nhớ thương của người về xuôi.
Hình ảnh hoán dụ về chiếc “áo chàm” vừa gợi ra trang phục đặc trưng của người Việt Bắc vừa khắc họa tính cách mộc mạc, tấm lòng son sắt của họ với cách mạng, với kháng chiến. Câu thơ đồng thời cho thấy sự xót xa và niềm cảm phục, thương mến của người đi với những người Việt Bắc.
Những nỗi niềm lưu luyến trong cảnh chia tay được thể hiện rõ nét trong cử chỉ “cầm tay nhau” chứa chan ân tình xúc động; trong sự lặng im vì “biết nói gì hôm nay”, khi mọi lời nói đều bất lực, đều không thể diễn tả những nỗi niềm đang dâng trào mãnh liệt. Sự ngập ngừng đặc biệt hiện ra trong nhịp thơ 3/3/2 bồn chồn day dứt thay thế cho nhịp chẵn êm đềm thông thường của thể thơ lục bát: “Cầm tay nhau, biết nói gì hôm nay”. Cử chỉ “cầm tay nhau” thân thương, trìu mến cho đến cả sự im lặng không lời đầy xúc động…
Bốn câu thơ vừa là sự đồng vọng, nhớ nhung của người về xuôi với người ở lại, vừa tái hiện cảnh tiễn đưa bịn rịn, lưu luyến sâu nặng nghĩa tình trong ngày chiến thắng. Những nỗi niềm băn khoăn trăn trở của người ở lại tiếp tục thể hiện trong 6 câu hỏi của đoạn thơ 12 câu tiếp theo (từ câu “Mình đi, có nhớ những ngày” đến câu “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”):
– Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già?
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son?
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh?
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Nếu hai câu hỏi ở phần đầu mới chỉ gợi ra hình ảnh khái quát của quá khứ “mười lăm năm ấy” với những gắn bó thiết tha, của chiến khu Việt Bắc với “núi” với “nguồn” thân thuộc thì những câu hỏi trong đoạn thơ sau đã hướng tới những kỉ niệm thật cụ thể, xúc động.
Đoạn thơ gồm 6 câu hỏi của người ở lại với người ra đi, những câu hỏi dồn dập, gấp gáp bởi nỗi nhớ trào dâng khi giờ phút chia tay đang đến gần. Sự đắp đổi nhịp nhàng trong điệp ngữ ở các câu 6 “Mình đi có nhớ…. Mình về có nhớ….; sự đăng đối trong hai vế của các câu 8 với nhịp 4/4, đó là những yếu tố tạo nên nhạc điệu ngân nga, dìu dặt ngọt ngào cho đoạn thơ. Nhịp điệu trữ tình ấy đã góp phần thể hiện tinh tế nỗi vấn vương xao xuyến giăng mắc trong lòng kẻ ở lẫn người đi để từ đó, quá khứ đầy ắp kỉ niệm ào ạt trở về.
Trong những lời nhắc nhở da diết của người ở lại với người ra đi, Việt Bắc hiện lên thật sống động từ những khắc nghiệt của thiên nhiên với “mưa nguồn”, “suối lũ”, “lau xám”, “mây mù”…tới cuộc sống kháng chiến gian khổ, thiếu thốn với “miếng cơm chấm muối”, từ những trang sử hào hùng “khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”, tới những sự kiện trọng đại của cách mạng và kháng chiến nơi “Tân Trào, Hồng Thái…”.
Những câu hỏi tha thiết của người ở lại đã làm rõ cội nguồn tạo nên sự gắn bó sâu nặng giữa “mình” và “ta”, giữa đồng bào Việt Bắc và những người kháng chiến. Họ đã cùng nhau chia sẻ từ những gian khổ thiếu thốn khi nhường nhau “miếng cơm chấm muối” đến những tâm tư nỗi niềm khi chung nhau “mối thù nặng vai”; họ đã sát cánh bên nhau trong những năm tháng ác liệt hào hùng từ thời Mặt trận Việt Minh tới 9 năm kháng chiến chống Pháp…Sự chia sẻ trong quá khứ tạo nên sự gắn bó trong hiện tại và nghĩa tình thủy chung trong tương lai. Gian truân vất vả chỉ càng làm ngời lên vẻ đẹp trong tâm hồn của những người dân Việt Bắc nghèo khổ mà sắt son, trung hậu, nghĩa tình, một lòng với cách mạng và kháng chiến.
Những gắn bó ân tình suốt “mười lăm năm ấy” đã làm tăng thêm nỗi nhớ nhung và cảm giác trống vắng cho núi rừng khi chia biệt:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Câu 6 vẫn mang hình thức của một câu hỏi nhưng không dùng để hỏi người đi mà chỉ để thể hiện nỗi lòng người ở lại. “Rừng núi” là hoán dụ cho người dân Việt Bắc ở lại nơi rừng xanh núi đỏ heo hút, hoang sơ, “ai” chính là “mình”, người ra đi. Nỗi nhớ nhung và một chút mặc cảm ngậm ngùi được bộc lộ gián tiếp qua cách nói tránh và cấu trúc câu nghi vấn khiến ý thơ càng thêm xao xuyến. Tính chất phiếm chỉ khiến hình ảnh người đi càng trở nên xa xôi hơn trong ánh mắt nhớ nhung của những người dân Việt Bắc mộc mạc, chân thành.
Câu 8 gồm hai vế đối xứng nhắc đến “trám bùi” và “măng mai” là những sản vật quen thuộc và quí giá của núi rừng. Phép điệp trong cấu trúc “để rụng…để già” gợi lên hình ảnh cuộc sống như ngưng trệ, núi rừng như hoang phế sau lưng người đi cùng cảm giác buồn bã, hẫng hụt, trống trải trong lòng người ở lại. Dường như sau khi người ra đi, trám bùi trên cây không ai hái, rụng xuống đất không ai nhặt, măng mai để già hoang phí giữa rừng sâu – người ra đi đã để lại một khoảng trống mênh mông trong lòng người Việt Bắc giữa heo hút núi rừng.
Sự gắn bó khiến họ thêm hiểu nhau, thêm thương cảm và trân trọng:
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Câu hỏi là một lời nhắc nhở cảm động với người ra đi: xin đừng ba giờ quên những con người nghèo khổ mà son sắt kiên trung, một lòng đi theo cách mạng và kháng chiến. Phép tương phản trong hai tiểu đối của câu 8 đã trở thành những nét khắc họa đặc trưng nhất cho cuộc sống và con người Việt Bắc. “Hắt hiu lau xám” vừa là hình ảnh thực gợi tả không gian hoang vắng, tiêu sơ, buồn bã của núi rừng, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ cho cuộc sống nghèo khổ của người dân nơi đây. “Nhà” là hoán dụ cho con người, “đậm đà lòng son” là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi tấm lòng trung hậu, nghĩa tình của những người dân Việt Bắc nghèo khổ. Và có lẽ chính màu lau xám hắt hiu của núi rừng càng làm đậm thêm những tấm lòng son sắt, thủy chung.
Câu thơ “Mình đi, mình có nhớ mình” có nhiều cách hiểu căn cứ vào những nét nghĩa khác nhau của từ “mình” ở cuối câu thơ. Có thể hiểu chữ “mình” ấy là “ta”- người ở lại, khi ấy, câu hỏi sẽ xao xuyến một nỗi nhớ nhung, day dứt một niềm trăn trở: mình về, mình có nhớ ta – mình đi, mình có còn nhớ đến ta không, đây cũng là nỗi niềm da diết trong suốt bài thơ. Cách hiểu này cho thấy sự hòa nhập gắn kết thật đằm thắm giữa “ta” và “mình”, tuy hai mà một, không thể chia xa, không thể tách rời.
Lại cũng có thể hiểu “mình” là người ra đi. Và khi ấy, câu hỏi sẽ là một lời nhắc nhở tha thiết, sâu xa và nghiêm nghị: “mình” đi, “mình” có nhớ và có giữ được mãi là con người “mình” ngày xưa ấy, con người mà “ta” đã yêu mến, trân trọng, nhớ thương; có mãi còn là con người bất khuất, nghĩa tình thủy chung nhân hậu đã sát cánh bên “ta” trong kháng chiến, đã cùng “ta” chia ngọt sẻ bùi trong suốt “mười lăm năm ấy”? Câu hỏi vì thế cũng trở thành lời nhắc: đừng đánh mất chính con người mình trong cuộc sống phồn hoa đô hội, đừng bao giờ quên mảnh trăng giữa rừng khi đã trở về với ánh đèn thành phố, đừng bao giờ quên những năm tháng kháng chiến gian khổ, hào hùng khi trở về với cuộc sống hòa bình.
Sau câu hỏi “Mình đi, mình có nhớ mình”, câu 8 khẳng định lại một lần nữa tấm lòng gắn bó sắt son của Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, lí do của tình yêu, nỗi nhớ và đạo lí thủy chung trong lòng người đi:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Câu thơ đã được nhà thơ gửi gắm những tầng nghĩa sâu sắc khi “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” được tách ra trong hai vế với những tập hợp ngôn từ mới mẻ. Vế thứ nhất là hai danh từ riêng: “Tân Trào”, “Hồng Thái”, đó là những địa danh gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc và kháng chiến: đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân Đại hội 8/1945, thành lập ủy ban dân tộc giải phóng và phát lệnh Tổng khởi nghĩa; bên gốc đa Tân Trào, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã làm lễ xuất phát chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa.
Vế sau là hai danh từ chung trong đó “mái đình, cây đa” chính là những hình ảnh bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam, là nơi tụ họp, hẹn hò, là không gian gần gũi thân yêu với cả cộng đồng và đôi lứa. Hai tiểu đối trong câu thơ đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người dân với cách mạng và kháng chiến: khi Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, khi người dân Việt Bắc một lòng đi theo cách mạng thì những sự kiện lớn lao của cách mạng sẽ trở thành sự quan tâm sâu sắc, thiêng liêng, thành những tâm tư sâu nặng trong lòng người; những địa danh gắn với các sự kiện quan trọng của cách mạng và kháng chiến cũng trở nên gần gũi như cây đa, bến nước, con đò, tình cảm của người dân Việt Bắc dành cho những người kháng chiến cũng trở nên thân yêu như tình làng nghĩa xóm hay tình yêu lứa đôi…
Bốn câu cuối đoạn thơ khẳng định đinh ninh sự gắn bó nghĩa tình giữa người đi kẻ ở bền chặt như muối mặn, gừng cay, như suối nguồn bất tận:
“- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”
Câu thơ đầu gồm hai tiểu đối trong đó nhà thơ sử dụng phép lặp đan xen giữa “ta” – “mình” cùng từ “với” như một thứ keo gắn kết “Ta với mình, mình với ta”. Kết cấu ngôn ngữ đặc sắc ấy đã gợi tả sự quấn quít, giao hòa giữa người đi, kẻ ở khăng khít không thể tách rời.
Sau câu thơ thể hiện sự gắn bó thân thiết giữa “mình” và “ta” là một lời khẳng định sắt son của người ra đi: “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”. Nghĩa tiếng Hán của cụm từ “sau trước” chính là “thủy chung”, sống có trước có sau là đạo lí thủy chung truyền thống của người Việt Nam từ bao đời nay. Nhưng với những ý nghĩa của cụm từ “sau trước”, ý thơ không chỉ khẳng định sự thủy chung mà còn lí giải sự thủy chung một cách sâu xa, thuyết phục.
“Sau trước” còn gợi một khoảng thời gian dài từ trước đến sau, từ quá khứ qua hiện tại đến tương lai, “thức lâu mới biết đêm dài”, thời gian khiến con người thêm hiểu lòng nhau. Khi đã có những năm tháng gắn bó trong quá khứ, khi cùng nhau chung vai gánh vác những khó khăn gian khổ, cùng nhau chia sẻ những tâm tình, tình cảm giữa họ thêm “mặn mà” đằm thắm; “đinh ninh” là chắc chắn, là không quên, không đổi, tình cảm đã mặn mà trong quá khứ sẽ mãi bền chặt theo thời gian, không bao giờ nhạt phai, thay đổi.
Hai câu cuối như một lời thề chung thủy:
“Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”
Nếu người ở lại băn khoăn, trăn trở trong một câu hỏi hàm chứa bao ý nghĩa sâu xa: “mình đi, mình có nhớ mình” thì người đi cũng trả lời trong một sự hô ứng, đồng vọng, đồng cảm: “Mình đi, mình lại nhớ mình”. Đại từ “mình” ở cuối câu thơ với nhiều nét nghĩa: nếu hiểu “mình” là người ở lại, câu trả lời của người đi thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của những con người có sự gắn bó, hòa nhập sâu sắc bởi “ta với mình” tuy một mà hai!; nếu hiểu “mình” là người đi, câu thơ sẽ là lời khẳng định: ánh đèn thành phố và cuộc sống hòa bình sẽ không bao giờ có thể khiến người trở về quên “vầng trăng tình nghĩa”, không bao giờ quên quá khứ đẹp đẽ, nghĩa tình, càng không bao giờ đánh mất chính mình, không bao giờ phụ tình yêu thương của Việt Bắc.
Câu 8 xuất hiện một hình ảnh so sánh phảng phất phong vị ca dao “đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”. Hình ảnh “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…” trước hết đã nhấn mạnh sắc thái và mức độ của nỗi nhớ. Nỗi nhớ vốn là một khái niệm trừu tượng, nay được cụ thể hóa, được định lượng, hiện hữu như nước trong nguồn, đầy ắp, lặng thầm và vô tận; sau nữa, hình ảnh nước trong nguồn còn gợi những suy ngẫm sâu xa về nguồn cội, về đạo lí thủy chung tình nghĩa “uống nước nhớ nguồn”, hình ảnh so sánh trong câu thơ còn như thầm đáp lại sự trăn trở của Việt Bắc: “Mình về mình có nhớ không – Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”.
- Kết bài:
24 câu thơ đầu bài thơ “Việt Bắc” tái hiện một giai đoạn gian khổ nhưng vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc, nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người. Đoạn thơ cũng đồng thời thể hiện niềm tin yêu, hy vọng tràn đầy vào viễn ảnh tươi sáng của dân tộc từ cán bộ, đồng bào với chiến khu Việt Bắc, với cụ Hồ, với cách mạng, vẽ nên bức chân dung một Việt Bắc gian nan mà nghĩa tình, thơ mộng, rất đối hào hùng trong nỗi nhớ của người ra đi.
- Phân tích nỗi nhớ Việt Bắc trong bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu)
- Phân tích bút pháp nghệ thuật tạo hình trong đoạn thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu
- Phân tích vẻ đẹp bức tranh tứ bình trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu
- Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên và con người trong “Việt Bắc’ của Tố Hữu