Cảm nhận bài thơ Chuyện cổ nước mình của Lâm Thị Mỹ Dạ

cam-nhan-bai-tho-chuyen-co-nuoc-minh-cua-lam-thi-my-da

Cảm nhận của em về bài thơ Chuyện cổ nước mình của Lâm Thị Mỹ Dạ.

  • Mở bài:

Bài thơ “Truyện cổ nước mình” của Lâm Thị Mỹ Dạ viết bằng thể thơ lục bát, âm điệu nhẹ nhàng, mang màu sắc ca dao, dân ca. Bằng tình yêu đối với những câu chuyện cổ của dân tộc, tác giả Lâm Thị Mỹ Dạ đã viết nên những vần thơ ngọt ngào, đằm thắm, nhẹ nhàng đi vào lòng người. Qua bài thơ tác giả ca ngợi truyện cổ của nước mình mang nhiều ý nghĩa sâu xa, chứa đựng bao bài học quý báu của ông cha truyền lại cho con cháu đời sau.

  • Thân bài:

Bài thơ Chuyện cổ nước mình được viết theo thể thơ lục bát, âm điệu nhẹ nhàng, mang màu sắc ca dao, dân ca.  Mở đầu bài thơ, tác giả đã bộc lộ tình yêu với chuyện cổ của đất nước. Đó là những câu chuyện giàu giàu giá trị nhân văn cao đẹp. Những câu chuyện cổ thể hiện tình người rộng lớn. Đặc biệt là triết lý sống “ở hiền gặp lành” là điều khiến cho nhà thơ phải “yêu” và quý trọng:

“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì được phật tiên độ trì”.

“Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo” là triết lí, là niềm tin của nhân dân ta gửi gắm trong truyện cổ. Câu thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ gợi nhớ trong lòng ta bao truyện cổ, bao hình ảnh, bao nhân vật. Anh trai cày hiền lành được Phật trao cho câu thần chú: “Khắc nhập! Khắc xuất” mà lấy được vợ đẹp con nhà giàu (Truyện “Cây tre trăm đốt”). Người em cần cù, trung hậu được con chim phượng hoàng đền đáp “ăn một quả trà cục vàng” mà trở nên giàu có hạnh phúc; trái lại người anh tham lam mà chết chìm xuống đáy biển (Truyện “Cây khế”. Thạch Sanh được Tiên “độ trì” mà trở nên võ nghệ cao cường, có lắm phép thần thông biến hóa, đã giết chết Trăn tinh, bắn chết Đại Bàng, có đàn thần để lui giặc, được làm phò mã, rồi được làm vua; trái lại Lý Thông gian tham, độc ác, quỷ quyệt bị sét đánh rồi hóa thành bọ hung…

Đúng như Lâm Thị Mỹ Dạ đã viết:

“Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì được phật tiên độ trì”.

Truyện cổ nước mình đã trở thành hành trang tinh thần, đem đến cho nhà thơ nhiều sức mạnh để vượt qua mọi thử thách “nắng mưa” trong cuộc đời, để đi tới mọi miền quê, mọi chân trời xa xôi đẹp đẽ:

“Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sông thầm thì tiếng xưa.
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi”.

Đọc truyện cổ nước mình như được “nhận mật”, như được gặp ông cha, khám phá được bao phẩm chất tốt đẹp của tổ tiên mình:

“Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình
Rất công bằng, rất thông minh
Vừa độ lượng, lại đa tình, đa mang”.

Truyện cổ nước mình hàm chứa bao bài học quý báu, đó là bài học về đạo lí làm người: sống phải chân thật chân thành, phải chăm làm siêng năng, phải có trí tuệ đừng a dua. Tác giả gợi lên thật khéo truyện “Tấm Cám”, truyện “Đẽo cày giữa đường”, …để nói về những bài học do ông cha gửi lại “đời sau” qua truyện cổ:

“Thị thơm thị giấu người thơm
Chăm làm thì được áo cơm cửa nhà
Đẽo cày theo ý người ta
Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì”.

  • Kết bài:

“Truyện cổ nước mình” là một bài thơ hay, giản dị mà đậm đà. Bài thơ đã giúp mỗi tuổi thơ chúng ta yêu thêm truyện cổ của đất nước mình, dân tộc mình. Đọc bài thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ, chúng ta mới hiểu rõ vì sao nhân dân ta từ người trẻ đến người già, ai cũng yêu thích truyện cổ nước mình.

Bài văn tham khảo 2:

  • Mở bài:

Lâm Thị Mỹ Dạ là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong những tác phẩm mà tôi cảm thấy yêu thích nhất là “Chuyện cổ nước mình”.

  • Thân bài:

Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã khẳng định rằng:

“Tôi yêu chuyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm”.

Qua lời khẳng định này, tôi cảm nhận được giá trị, ý nghĩa của mỗi câu chuyện cổ. Tất cả đều hướng con người đến lối sống hướng thiện, có tình, có nghĩa. Và từ đó, chuyện cổ đã trở thành hành trang theo mỗi người bước vào cuộc sống:

“Mang theo chuyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi”.

Không dừng lại ở đó, chuyện cổ đã trở thành một sợi dây gắn kết các thế hệ với nhau:

“Đời cha ông với đời tôi
Như con sông với chân trời đã xa
Chỉ còn chuyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình”.

Lâm Thị Mỹ Dạ đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh: “Đời cha ông với đời tôi/ Như con sông với chân trời đã xa” nhằm góp phần diễn tả sự xa cách, khác biệt của thế hệ trước và sau cũng giống như khoảng cách giữa con sông với chân trời. Và dù có trải qua hàng nghìn năm, thế hệ “người xưa” đã đi xa nhưng những câu chuyện cổ sẽ mãi, trở thành phương tiện để con cháu ngày nay tìm hiểu về phong tục tập quán, đời sống sinh hoạt của cha ông mình.

Khi đọc đến những câu thơ tiếp theo, tôi bỗng nhớ về những truyện cổ tích đã rất quen thuộc:

“Rất công bằng, rất thông minh
Vừa độ lượng lại đa tình, đa mang
Thị thơm thì giấu người thơm
Chăm làm thì được áo cơm cửa nhà
Đẽo cày theo ý người ta
Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì
Tôi nghe chuyện cổ thầm thì
Lời cha ông dạy cũng vì đời sau
Đậm đà các tích trầu cau
Miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình người”.

Mỗi câu chuyện lại lồng ghép một bài học giá trị, nhằm khuyên nhủ con người về cách cư xử trong cuộc sống. Khi nhắc đến “thị thơm giấu người thơm”, chúng ta nhớ ngay đến truyện “Tấm Cám” với hình ảnh cô Tấm xinh đẹp, hiền từ. Từ “thơm” muốn nói về những người có phẩm chất tốt đẹp với tấm lòng thảo thơm. Không những vậy, chuyện cổ còn giáo dục con người về thái độ “ba phải”, không có chủ kiến qua câu “Đẽo cày theo ý người ta/Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì”. Hay lời răn dạy về lối sống tình nghĩa, thủy chung qua tích “trầu cau”.

Đến với những câu thơ cuối cùng, tác giả đã khẳng định một lần nữa giá trị của chuyện cổ:

“Sẽ đi qua cuộc đời tôi
Bấy nhiêu thời nữa chuyển dời xa xôi.
Nhưng bao chuyện cổ trên đời
Vẫn luôn mới mẻ rạng ngời lương tâm.”

Bốn dòng thơ muốn khẳng định giá trị của chuyện cổ sẽ còn mãi. Đồng thời, tác giả muốn gửi gắm rằng mỗi người hãy biết lưu giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị đẹp đẽ mà cha ông để lại.

  • Kết bài:

Với thể thơ lục bát mang âm hưởng ca dao, dân ca kết hợp với việc sử dụng từ láy, biện pháp tu từ so sánh, điệp từ, điệp cấu trúc… qua bài thơ Truyện cổ nước mình, tác giả ca ngợi truyện cổ của nước mình mang nhiều ý nghĩa sâu xa, chứa đựng bao bài học quý báu của ông cha truyền lại cho con cháu đời sau. Bài thơ đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc, giúp chúng ta thêm yêu quý, trân trọng chuyện cổ.


Bài văn tham khảo 2:

  • Mở bài:

Lâm Thị Mỹ Dạ là một trong những gương mặt nhà thơ trẻ tiêu biểu nhất của nền thơ kháng chiến chống mĩ cứu nước. Thơ bà nhẹ nhàng, đằm thắm, trong trẻo, thể hiện một tâm hồn tinh tế, giàu yêu thương. Một trong những bài thơ đặc sắc của Lâm Thị Mỹ Dạ là “Chuyện cổ nước mình”. Bài thơ thể hiện tình yêu, niềm tự hào của tác giả với kho tàng đồ sộ, phong phú về các câu chuyện cổ Việt Nam; đồng thời qua đó, tác giả nhẹ nhàng gửi gắm, nhắn nhủ những bài học tốt đẹp của cha ông.

  • Thân bài:

Mở đầu bài thơ, nhân vật trữ tình đã khái quát tình cảm của mình với vẻ đẹp của chuyện cổ nước mình:

“Tôi yêu chuyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa”.

Tình cảm của nhân vật trữ tình được bộc lộ trực tiếp qua từ “yêu”. Tình cảm đó cho thấy sự trân trọng, gắn bó, say mê của “tôi” đối với kho tàng chuyện cổ dân tộc. Lí do mà “tôi” lại yêu chuyện cổ nước mình vì chính vẻ đẹp của nó. Nhà thơ sử dụng các tính từ để khái quát vẻ đẹp của chuyện cổ: “nhân hậu” – “tuyệt vời” – “sâu xa”. Chỉ cần ba tính từ đã đủ để khẳng định những giá trị cốt lõi của chuyện cổ.

Những vẻ đẹp của chuyện cổ được cụ thể hoá qua những đạo lí được cha ông gửi gắm:

“Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì gặp người tiên độ trì”.

Vẻ đẹp nhân hậu, tuyệt vời, sâu sa hay cũng chính là vẻ đẹp của tâm hồn, trí tuệ cha ông đúc kết. Đó là bài học về lối sống giàu lòng nhân ái, chan chứa tình thương giữa con người với con người “Thương người rồi mới thương ta”; ân nghĩa, thuỷ chung trong tình yêu “Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm”; cũng như niềm tin về lẽ công bằng trong xã hội “Ở hiền thì lại gặp hiền”.

Điều thú vị là những dẫn chứng về vẻ đẹp của chuyện cổ lại được tác giả khéo léo gợi nên qua những chất liệu văn hoá dân gian – vốn là sản phẩm tinh thần của cha ông. Đó là những câu tục ngữ, ca dao được tác giả gợi lên qua một số từ hoặc cụm từ như câu ca dao “Yêu nhau mấy núi cũng leo / Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua” hay qua câu tục ngữ “Thương người như thể thương thân”, “Ở hiền gặp lành”.

Triết lí bao quát hầu hết trong các chuyện cổ là triết lí “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”, thể hiện niềm tin của nhân dân ta gửi gắm trong chuyện cổ. Câu thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ gợi nhớ trong lòng ta bao chuyện cổ, bao hình ảnh, bao nhân vật. Đó là anh trai cày nghèo khó, hiền lành mà lấy được vợ đẹp con nhà giàu trong truyện “Cây tre trăm đốt”. Đó là người em cần cù, trung hậu được con chim phượng hoàng đền đáp “ăn một quả trà cục vàng” mà trở nên giàu có hạnh phúc; trái lại người anh tham lam mà chết chìm xuống đáy biển trong truyện “Cây khế”. Đó là chàng Thạch Sanh thật thà, chất phác lấy được công chúa.… Như vậy, khẳng định, chuyện cổ nước mình đã phản ánh cuộc sống một cách sâu sắc, kết tinh những vẻ đẹp tình cảm, tư tưởng của người xưa, đặc biệt là tình người rộng lớn. Kết tinh những giá trị tinh thần, về đẹp tâm hồn, trí tuệ của người xưa nên chuyện cổ có ý nghĩa vô cùng lớn lao với muôn đời.

Chuyện cổ nước mình đã trở thành hành trang tinh thần, đem đến cho nhân vật trữ tình sức mạnh để vượt qua mọi thử thách “nắng mưa” trong cuộc đời, để đi tới mọi miền quê, mọi chân trời xa xôi đẹp đẽ:

“Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sông thầm thì tiếng xưa.
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi”.

Nhân vật trữ tình trong bài thơ lớn lên từ những câu chuyện cổ qua lời kể của bà, của mẹ. Trên hành trình vô tận của cuộc sống, “tôi” có được những câu chuyện cổ là hành trang để khám phá cuộc sống. Chuyện cổ trở thành hành trang tinh thần, là điểm tựa cho “tôi” trong cuộc đời.

Biện pháp nhân hóa kết hợp với đảo ngữ “thì thầm tiếng xưa” để khẳng định giá trị của chuyện cổ của cha ông với cuộc sống hôm nay. “Tiếng xưa” là ẩn dụ chỉ tiếng nói, lời răn dạy của cha ông gửi gắm trong những câu chuyện. Giá trị tinh thần, triết lí nhân sinh, truyền thống văn hóa của cha ông có sức sống mãnh liệt, bồi đắp tâm hồn nhà thơ, làm hành trang trong cuộc đời “tôi”. Không chỉ bồi đắp tâm hồn, “tôi” còn trở nên vững vàng, tự tin trong cuộc đời dài rộng “Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa”. Dẫu cuộc đời sau này có lắm “nắng”, “mưa” thử thách nhưng nhờ có hành trang chuyện cổ – những giá trị tinh thần, lời dạy của cha ông soi sáng, dẫn lối thì mỗi người sẽ an nhiên trước cuộc đời, giống như dòng sông kia vẫn luôn yên bình chảy trôi soi bóng hàng dừa, ta sẽ luôn cảm nhận được vẻ đẹp của cuộc sống từ những điều bình dị nhất.

Không chỉ làm hành trang mang theo của mỗi người, chuyện cổ còn là phương tiện kết nối quá khứ và hiện tại, là sợi dây kết nối giữa ông cha với con cháu:

Đời cha ông với đời tôi
Như con sông với chân trời đã xa
Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình

Trong dòng chảy miên viễn của thời gian, có bao giá trị bị quên lãng, chôn vùi. Những lời dạy của cha ông, những thế hệ đi trước liệu thế hệ cháu con có biết đến? Bằng giọng thơ mang nặng suy ngẫm, triết lí, nhà thơ đã bày tỏ lòng biết ơn đối với những chuyện cổ, nhờ đó mà thế hệ nhà thơ mới biết được bộ mặt tinh thần của cha ông. Mối liên hệ giữa “đời cha ông”- thế hệ đi trước với “đời tôi” – thế hệ sau được so sánh với mối liên hệ giữa con sông với chân trời đã xa. Như dòng sông bắt đầu từ phía chân trời, cứ chảy mải miết theo dòng thời gian, ngày càng xa điểm khởi thuỷ.

Cuộc đời con người cũng vậy, các thế hệ đi trước rồi sẽ dần rơi vào chiều sâu quá khứ, thế hệ sau gánh vác trách nhiệm lịch sử của thế hệ trước, tiếp tục làm dày thêm truyền thống văn hoá. Khoảng cách thời gian giữa các thế hệ được ví với khoảng cách không gian địa lí con sông – chân trời. Điệp từ “với” nhấn mạnh quan hệ gắn kết giữa các thế hệ, tạo sợi dậy liên tưởng. Có bao giá trị, bao lời dạy mà cha ông muốn gửi gắm đến con cháu đời sau, chỉ có một phương tiện có thể làm cầu nối – đó chính là những câu chuyện cổ. Chính những câu “chuyện cổ thiết tha” đã giúp tác giả “nhận mặt cha ông” tức là nhận ra, thấu hiểu được thế giới tinh thần, tâm hồn, lối sống, phong tục, tập quán,… được ghi dấu trong những câu chuyện từ ngàn xưa. Lời thơ thể hiện tình cảm yêu mến sâu nặng của tác giả với thế giới chuyện cổ nói riêng và những giá trị văn hoá dân tộc nói chung.

“Rất công bằng, rất thông minh
Vừa độ lượng lại vừa đa tình, đa mang”

Nhà thơ khẳng định, đánh giá vẻ đẹp nhân văn của chuyện cổ bằng từ ngữ vô cùng ý nghĩa: công bằng, thông minh, độ lượng, đa tình, đa mang. Đó là những phẩm chất, đức tính quan trọng để hình thành nhân cách của con người.

Có biết bao chuyện cổ đã sáng ngời những vẻ đẹp đáng quý đó:

“Thị thơm thì giấu người thơm
Chăm làm thì được áo cơm cửa nhà
Đẽo cày theo ý người ta
Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì
Tôi nghe truyện cổ thầm thì
Lời cha ông dạy cũng vì đời sau.
Đậm đà cái tích trầu cau
Miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình người”.

Những câu chuyện cổ được gợi ra trong kí ức của tác giả là những câu chuyện đã in dấu ấn trong đời sống, phong tục, tập quán xưa, những quan niệm của người xưa. Đó là câu chuyện Tấm Cám được gợi lên qua qua câu thơ: “Thị thơm thì giấu người thơm”. Hình ảnh ẩn dụ đặc sắc “người thơm” khiến người đọc liên tưởng đến cô Tấm ngoan hiền, trong sáng, hay lam hay làm. Chuyện cổ “Tấm Cám” cùng hình ảnh cô Tấm gửi gắm triết lí về đức tính chăm chỉ của con người trong cuộc sống “Chăm làm thì được áo cơm, cửa nhà”. Đó còn là bài học cần có chính kiến, chủ động trong cuộc sống, không nên chỉ làm theo lời người khác được cha ông khéo léo cài vào câu chuyện “Đẽo cày giữa đường”. Hay bài học về tình nghĩa anh em, vợ chồng sâu đậm được gửi gắm qua câu chuyện “Sự tích trầu cau” được gợi nhắc đến trong câu thơ “Đậm đà cái tích trầu cau / Miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình người”….

Nhà thơ không kể tên tác phẩm chuyện cụ thể, cũng không tóm tắt, liệt kê sự việc mà tác giả chỉ khéo léo gợi lên tác phẩm chuyện cổ qua một vài hình ảnh, ý nghĩa của chuyện cổ. Cả thế giới chuyện cố như sống dậy trong trang thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ. Lời thơ nối tiếp nhau vẽ ra cả một thế giới chuyện cổ sống động, nơi đó đã kết tinh bao vẻ đẹp tâm hồn, trí tuệ cùng bao lời dạy sâu xa mà cha ông gửi gắm đời sau. Đọc mỗi câu chuyện cổ và suy ngẫm, trong tim mỗi người như thầm thì lời nói cha ông. Nhờ có những câu chuyện cổ mà thế hệ hôm nay và mai sau biết được gương mặt tâm hồn của cha ông mình và biết sống sao cho đúng với những lời dạy quý báu mà cha ông gửi gắm.

Bốn câu thơ cuối bài là những suy ngẫm của nhân vật trữ tình về sức sống lâu bền của chuyện cổ nước mình:

“Sẽ đi qua cuộc đời tôi
Bấy nhiêu thời nữa chuyển dời xa xôi.
Nhưng bao chuyện cổ trên đời
Vẫn luôn mới mẻ rạng ngời lương tâm”

Bằng nghệ thuật đối lập ý thơ ở hai câu trên với hai câu dưới, nhân vật trữ khẳng định một điều chắc chắn: dù thời gian có “chuyển dời”, dù có trải qua bao thế hệ về sau thì giá trị của những câu chuyện cổ của cha ông vẫn luôn “mới mẻ”, toả sáng, đủ sức soi đường cho các lớp lớp cháu con. Chuyện cổ không chỉ có giá trị to lớn với thế hệ hôm nay – thế hệ mà “tôi” đang sống mà sẽ còn nguyên vẹn giá trị với các thế hệ tương lai mai sau. Dù thời gian có khắc nghiệt đến đâu thì cũng không thể làm hư hao, mất mát, mờ đi vẻ đẹp quý báu của những chuyện cổ. Thế giới chuyện cổ sẽ không bao giờ cũ đi, thậm chí còn luôn “mới mẻ” vẫn vẹn nguyên giá trị tinh thần, giống như một viêc ngọc toả sáng mãi cùng thời gian để mỗi thế hệ người đọc sẽ tìm thấy ở đó những giá trị chân thiện mĩ, để mỗi lần đọc sẽ thấy những lời dạy của cha ông vẫn nguyên giá trị hiện sinh, làm tâm hồn con người thêm trong lành, hướng thiện hơn.

“Chuyện cổ nước mình” của Lâm Thị Mỹ Dã là bài thơ thành công cả về phương diện nội dung và nghệ thuật. Điểm thành công của bài thơ trước hết ở việc đề cập vấn đề triết lí sâu sắc nhưng bằng giọng thơ nhỏ nhẹ, tâm tình khiến lời thơ dễ đi sâu vào tâm hồn người đọc. Nhà thơ đã viết nên những vần thơ dịu dàng tha thiết, mang vẻ đẹp văn hóa, chở cả tình yêu thương, lấp lánh vẻ đẹp của nghệ thuật bởi trái tim chân thành, nhân hậu, dịu dàng. Bằng thể thơ lục bát dễ đọc, dễ nhớ; ngôn ngữ trong sáng, giản dị; sử dụng sáng tạo chất liệu văn hoá dân kết hợp với các biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh, liệt kê,…, bài thơ đã ngợi ca vẻ đẹp, truyền thống văn hoá của dân tộc ta qua những câu chuyện cổ.

Qua bài thơ, nhà thơ gián tiếp khẳng định kho tàng chuyện cổ nước nhà có giá trị vô cùng to lớn và sẽ tồn tại mãi muôn đời sau. Lâm Thị Mỹ Dạ cũng thể hiện sự am hiểu chuyện cổ và vốn văn hoá dân gian; đồng thời nhà thơ bày tỏ tình yêu và niềm tự hào với truyền thống văn hoá nói chung và chuyện cổ nói riêng. Với Lâm Thị Mỹ Dạ, đất nước không chỉ đẹp bởi núi sông biển cả hùng vĩ, phong cảnh nên thơ mà làm nên chiều sâu vẻ đẹp đất nước còn bởi những truyền thống văn hoá, giá trị tinh thần – những điều cốt lõi đã làm nên gương mặt tâm hồn người dân Việt Nam. Nhà thơ cũng gián tiếp gửi tới mọi người thông điệp cần trân trọng và giữ gìn văn hoá dân gian cũng những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc.

  • Kết bài:

Bài thơ đã giúp mỗi tuổi thơ chúng ta yêu thêm chuyện cổ của đất nước mình, dân tộc mình. Đọc bài thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ, chúng ta mới hiểu rõ vì sao nhân dân ta từ người trẻ đến người già, ai cũng yêu, cũng thích chuyện cổ nước mình.

Xem thêm:

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.