»» Nội dung bài viết:
Cảm nhận chất sử thi qua hình tượng cụ Mết.
- Mở bài:
– Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên, với nhiều tác phẩm đặc sắc.
– Rừng xà nu là khúc sử thi văn xuôi hiện đại tái hiện vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.
– Một trong những nhân vật mang đậm chất sử thi là hình tượng cụ Mết.
- Thân bài:
Hình tượng nhân vật cụ Mết cũng là hình tượng nghệ thuật nổi bậc, được nhà văn chú ý xây dựng trong truyện ngắn Rừng xà nu. Ngay khi vừa xuất hiện, ấn tượng về một vị già làng mạnh mẽ đã thể hiện trong hình ảnh một bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy tay Tnú như một cái kìm sắt. Những nét vẽ ngoại hình về một cụ già quắc thước … mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng … ngực căng như một cây xà nu lớn … đã phác họa hình ảnh của một già làng sắc sảo, kiên nghị, vững chãi, tiềm tàng sức mạnh thể chất, tràn đầy uy lực tinh thần, có sức lôi cuốn, thuyết phục mạnh mẽ với cộng đồng.
Hầu như nét miêu tả nào ở cụ Mết cũng có tính cá biệt: cách nói ra như lệnh, ngôn ngữ giản dị mà dứt khoát thể hiện sự quyết đoán của những người đứng đầu; việc cụ không bao giờ khen, khi vừa ý nhất cũng chỉ nói: Được! là tính cách của một người luôn yêu cầu cao ở người khác cũng như chính mình, là thái độ coi trọng mọi người và tự trọng với bản thân; đặc biệt ấn tượng là giọng nói: đó thường là tiếng nói ồ ồ, dội vang trong lồng ngực, tiếng nói ấy hoặc vang vang khi hô hào dân làng Xô Man nổi dậy, hoặc trầm và nặng như tiếng vọng của núi rừng, như lời phán truyền của quá khứ khi kể chuyện về cuộc đời Tnú, về lịch sử oanh liệt của làng, tiếng nói ấy tha thiết trang nghiêm khi nhắc nhở dân làng và con cháu bài học lịch sử: Nghe rõ chưa các con, rõ chưa, nhớ lấy, ghi lấy…!
Cụ là người có tình yêu sâu sắc, sự gắn bó máu thịt với quê hương. Khi Tnú đi xa về, cụ dẫn anh ta ra máng nước đầu làng giội rửa, bằng việc làm ấy, cụ như muốn nhắc nhở người con xa quê dù có đi tới phương trời nào cũng phải ghi nhớ và trân trọng nguồn cội thiêng liêng của quê hương. Nói chuyện với Tnú, cụ luôn tự hào khẳng định bằng cách nói tuyệt đối có phần hơi cực đoan, cách nói quen thuộc của tình yêu: không gì mạnh bằng cây xà nu đất ta… gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này… Với cụ Mết, quê hương thật đẹp đẽ và lớn lao, thiêng liêng và thân thuộc từ dòng nước trong nguồn, hạt gạo trên nương cho tới những cánh rừng xà nu bạt ngàn mạnh mẽ và cường tráng. Cụ luôn tâm niệm và dặn con cháu: Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn – như vậy, lòng trung thành với Đảng và cách mạng của cụ cũng xuất phát từ tình yêu sâu sắc với rừng núi quê hương.
Bên trong con người có vẻ quắc thước, nghiêm nghị ấy là một trái tim trĩu nặng tình thương yêu với dân làng. Khi Tnú trở về thăm làng sau ba năm đi lực lượng, cụ Mết đã đón anh bằng tấm lòng thương yêu nồng hậu của người cha: quyết định anh ở nhà cụ Mết trong đêm về làng, động viên khích lệ anh: Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được – cụ đã đem đến cho Tnú, người con bất hạnh của dân làng Xô Man một cảm giác ấm áp của gia đình khi trở về làng. Ngồi ăn cơm với Tnú, nhìn lại hai bàn tay cụt đốt của anh, ông cụ đặt chén cơm xuống giận dữ, đó là biểu hiện rõ nhất của nỗi đau đớn xót thương cho Tnú, của nỗi căm giận kẻ thù tàn bạo không thể nguôi ngoai – bàn tay Tnú đã thành sẹo nhưng vết thương trong lòng già làng hình như vẫn chưa thôi nhức nhối.
Khi kể cho dân làng nghe về cái chết của vợ con Tnú, dù câu chuyện xảy ra đã tới ba năm, cụ vẫn không kìm nổi sự tiếc thương, đau đớn và xúc động, cụ vụng về trở tay lau một giọt nước mắt như muốn che giấu sự yếu đuối của lòng mình. Nhưng cũng chính cử chỉ vụng về ấy lại bộc lộ trái tim nhân hậu và tình yêu thương sâu sắc, chân thành của cụ với dân làng. Nhận được gói muối quý giá từ những người đi xa về, cụ luôn chia đều cho mọi người trong làng, để dành cho những người đau ốm, vị mặn của những hạt muối nhỏ bé cũng là vị mặn đậm đà của tình yêu thương trái tim già làng.
Trong vai trò của một già làng thời đánh Mĩ, cụ Mết kiên cường, vững chãi như một cây xà nu lớn, là chỗ dựa tin cậy của dân làng, có sức lôi cuốn mạnh mẽ với dân làng. Cụ Mết luôn giữ cho mình tình yêu, niềm tin và lòng tuyệt đối trung thành với Đảng, với cách mạng, câu nói: Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn! Cho thấy tình cảm của cụ với cách mạng thật chân thành, thiêng liêng, thấm thía khi nó có cội nguồn từ tình yêu núi nước quê hương. Cụ là người đứng đầu biết nhìn xa trông rộng, biết lo cho cuộc chiến đấu chung của dân làng. Cụ động viên dân làng lo dự trữ lương thực để có thể đủ ăn tới ba năm bởi: đánh Mĩ phải đánh dài…
Cụ đã thể hiện vai trò của một người già làng, tỉnh táo, sáng suốt kiềm chế được nỗi đau đớn và căm hờn ngay trong phút khốc liệt nhất, tìm ra con đường đúng đắn nhất, lãnh đạo dân làng nổi dậy, cầm vũ khí tiêu diệt kẻ thù. Trước cái chết của vợ con Tnú, trước cảnh Tnú bị bắt trói, bị tra tấn dã man, cụ Mết đau đớn song tỉnh táo không để tình cảm chi phối dẫn đến những hành động bộc phát, cụ nhắc đi nhắc lại: “Tau không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không. Tau không ra tau đi vào rừng… tìm bọn thanh niên…tìm giáo mác…Chính lí trí sáng suốt cần thiết của một già làng, của một người đứng đầu, người chịu trách nhiệm với sự sống còn của cả cộng đồng đã giúp cụ Mết lãnh đạo dân làng chiến đấu và chiến thắng kẻ thù tàn bạo.
Với trí tuệ sắc sảo của người đứng đầu, cụ Mết không chỉ nhắc tới sự kiện đau thương và các cuộc chiến đấu oanh liệt của dân làng trong đêm ấy như một kỉ niệm, cụ đã khái quát, đúc kết và khắc sâu quy luật tất yếu của cuộc chiến tranh cách mạng: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”. Chân lí ấy đã được rút ra từ những trang sử đầy máu và nước mắt của dân làng Xô Man, thông qua lời nhắc tha thiết của già làng: ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ lấy. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe…, nó sẽ trở thành lời phán truyền thiêng liêng của lịch sử cho các thế hệ mai sau.
Cụ Mết là một hình tượng nhân vật đẹp gợi nhớ hình ảnh những già làng, tộc trưởng trong sử thi, thần thoại, truyền thuyết. Trong những bản trường ca Tây Nguyên xưa. Bút pháp miêu tả đặc sắc của nhà văn Nguyễn Trung Thành cùng sự chi phối của khuynh hướng sử thi trong nền cảm hứng chung của văn học 1945 – 1975 khiến nhân vật không chỉ hiện lên với những phẩm chất ưu tú của cộng đồng mà còn là một nhân vật có cá tính riêng đặc sắc. Thông qua hình tượng nhân vật cụ Mết, Nguyễn Trung Thành đã ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần chiến đấu bất khuất, kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong thời đánh Mĩ, cũng đồng thời khái quát chân lí lịch sử lớn lao của thời đại, lí giải sâu sắc và thuyết phục con đường giải phóng của nhân dân, đất nước.
- Kết bài:
– Với kết cấu truyện lồng trong truyện, đầu cuối tương ứng đặc sắc, ngôn ngữ đậm chất sử thi, nhưng cũng mộc mạc giản dị, xây dựng hình tượng, … thông qua câu chuyện của dân làng Xô Man và hình tượng nhân vật cụ Mết, tác giả đã đặt ra vấn đề có ý nghĩ lớn lao với dân tộc: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi trường tồn thì không có cách nào hơn là đoàn kết đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù.
- Phân tích hình tượng nhân vật cụ Mết trong Rừng xà nu
- Chất sử thi trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
- Phân tích hình tượng cây xà nu, rừng xà nu trong truyện ngắn “rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, để làm rõ ý nghĩa tượng trưng cho sức sống và phẩm chất của người dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ.
Tham khảo:
Tính sử thi trong tác phẩm Rừng Xà Nu.
- Mở bài:
Nguyễn Trung Thành là một trong những cây bút thành công nhất viết về đề tài Tây Nguyên. Rừng xà nu là những bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyê , nói rộng ra là về hai cuộc chiến tranh nhân dân kì diệu của dân tộc ta. Tác giả Nguyễn Trung Thành đã khắc họa được những nhân vật anh hùng gắn bó thành một tập thể anh hùng vừa mang dấu ấn của thời đại, vừa đậm đà dáng nét Tây Nguyên.
- Thân bài:
Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ kéo dài suốt ba mươi năm (1945 – 1975) đã tác động mạnh mẽ tới đời sống của dân tộc ta, trong đó có văn học, nghệ thuật. Đặc điểm nổi bật của văn học giai đoạn này là khuynh hướng sử thi gắn liền với cảm hứng lãng mạn cách mạng.
Khuynh hướng sử thi thể hiện ở cách nhìn nhận, đánh giá của tác giả trước những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất dân tộc. Nhân vật chính trong các tác phẩm thường là những con người có lí tưởng cao đẹp, ý chí kiên cường, đại diện cho tinh hoa và khí phách của dân tộc. Phẩm chất quý báu của họ được thể hiện ở ý thức về bổn phận, nghĩa vụ công dân, ở lẽ sống đúng đắn và tình cảm lớn mang tính chất thời đại.
Cảm hứng lãng mạn là cảm hứng nồng nhiệt của “cái tôi” trữ tình hướng tới lí tưởng cách mạng. Cảm hứng lãng mạn trong văn học thời chống Mĩ chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định lí tưởng và vẻ đẹp của con người chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; trong thái độ ca ngợi chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; trong sự khẳng định niềm tin vững chắc vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã tiếp thêm sức mạnh thần kì để con người Việt Nam vượt lên mọi thử thách trong máu lửa của chiến tranh để hướng tới ngày mai chiến thắng. Khuynh hướng sử ti kết hợp với cảm hứng trữ tình, lãng mạn vừa đáp ứng được yêu cầu phản ánh hiện thực trong quá trình phát triển của cách mạng, vừa phản ánh tinh thần lạc quan trong chiến đấu.
Truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành sáng tác trong giai đoạn chống Mĩ tiêu biểu cho khuynh hướng trên. Chất sử thi thể hiện ở nhiều mặt: đề tài, chủ đề, hình tượng nghệ thuật, hệ thống nhân vật…
Cảm xúc của tác giả thể hiện qua cách kể chuyện vô cùng hấp dẫn và qua tính cách của các nhân vật. Chất lãng mạn thể hiện ở việc khẳng định, đề cao vẻ đẹp và sức mạnh của con người, của thiên nhiên, được đặt trong thế đối lập gay gắt với kè thù tàn bạo và man rợ.
Đề tài của truyện nói về số phận và con đường giải phóng của dân làng Xô Man ở Tây Nguyên, tiêu biểu cho số phận và con đường đấu tranh giải phóng của nhân dân miền Nam và của cả dân tộc.
Chủ đề tác phẩm thể hiện ý chí bất khuất, tinh thần chiến đấu của con người Tây Nguyên và con đường tất yếu mà đất nước ta, dân tộc ta đã đi và phải đi, trong hoàn cảnh quân giặc đã dùng bạo lực hòng hủy hoại, tiêu diệt sự sống của chúng ta.
Hình tượng cây xà nu và rừng xà nu mang đậm chất sử thi.
Nổi bật trong truyện ngắn này là hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu. Hình ảnh rừng xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng, góp phần tạo nên tính chất sử thi và lãng mạn của tác phẩm. Đoạn văn mở đầu đem đến cho người đọc cảm giác sung sướng, ngất ngây như được chiêm ngưỡng tận mắt vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Nguyên hùng vĩ. Tác giả đã thể hiện tình yêu sâu sắc, say mê của mình đối với cây xà nu, rừng xà nu, loại cây tượng trưng cho con người Tây Nguyên bất khuất, kiên cường. Tình yêu chân thành ấy đã thổi vào bức tranh phong cảnh một linh hồn sống động.
Công phu của tác giả trong đoạn văn miêu tả rừng xà nu đã đem lại hiệu quả nghệ thuật đặc biệt. Rừng xà nu nổi bật lên thành hình khối, có màu sắc, hương vị và ánh sáng rất riêng, tạo nên những liên tưởng bất ngờ, thú vị. Đây là một phần sự sống Tây Nguyên, đồng thời cũng tượng trưng cho các thế hệ đồng bào Tây Nguyên kiên cường, bất khuất đã bao đời tồn tại, sinh sôi trên mảnh đất này.
Rừng xà nu không chỉ là hiện thân cho vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng của sự sống bất diệt trước đau thương, chết chóc. Nguyễn Trung Thành đã dựng lên tình huống đặc biệt: sự sống trong tư thế đối mặt với cái chết, với sự diệt vong. Những đau thương mà ba lứa cây xà nu phải gánh chịu tương ứng với những đau thương mà ba thế hệ dân làng Xô Man đã trải qua.
Hình ảnh rừng xà nu là biểu tượng của cuộc sống đau thương nhưng kiên cường, bất khuất của đồng bào Tây Nguyên. Nhựa xà nu được truyền lại nguyên vẹn từ những cây cổ thụ đến những cây non mới mọc, giống như dòng máu Tây Nguyên cũng được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Từ đó, Nguyễn Trung Thành khẳng định chân lí Sức sống của thiên nhiên và con người Tây Nguyên là bất diệt. Khi dân làng Xô Man nhất tề đứng lên giết giặc thì cũng là lúc những cánh rừng xà nu ào ào vang động và lửa cháy khắp rừng. Giữa con người và thiên nhiên Tây Nguyên có một sự tương đồng kì diệu.
Khi miêu tả rừng xà nu, cảm xúc của nhà văn Nguyễn Trung Thành là tha thiết hướng về sự sống, ngợi ca vẻ đẹp bất diệt của sự sống. Điều đó làm nên vẻ đẹp khó quên của hình tượng nghệ thuật và giá trị nhân văn sâu sắc của truyện ngắn Rừng xà nu. Hình ảnh cây xà nu được nhắc đến ở đầu và cuối tác phẩm khiến cho người đọc có cảm tưởng rằng truyện ngắn Rừng xà nu như một chương trong bản anh hùng ca bất tận về vùng đất Tây Nguyên bất khuất, kiên cường.
Chất sử thi qua hình tượng các nhân vật.
Giữa hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện: dân làng Xô Man yêu nước theo cách mạng và kẻ thù cướp nước cùng bè lũ tay sai có sự đối lập gay gắt, một mất một còn. Điều đáng chú ý là tác giả đã xây dựng thành công các hình tượng nhân vật đại diện cho những thế hệ dân làng Xô Man tiếp nối nhau vùng lên chiến đấu giải phóng quê hương.
Hình tượng cụ Mết.
Cụ Mết già làng là người lưu giữ truyền thống của làng từ xưa để lại và có trách nhiệm lưu truyền cho các thế hệ tiếp nối. Nhân vật này mang dáng dấp của những nhân vật anh hùng trong các thiên trường ca, sử thi Tây Nguyên. Cụ Mết không chỉ là người lãnh đạo cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man mà còn là người thường xuyên kể lại cuộc nổi dậy ấy cho con cháu nghe để tự hào về truyền thống bất khuất và con đường giải phóng của dân làng.
Mỗi dân làng là một chiến sĩ. Cụ Mết – linh hồn của làng Xô Man – có bề ngoài oai phong lẫm liệt. Tác giả miêu tả nhân vật này với một tình cảm mến yêu, kính phục đặc biệt: Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược, ông ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn. Sáu mươi tuổi mà tiếng nói vẫn ồ ồ, dội vang trong lồng ngực… Lúc cụ Mết nói, mọi người đều yên lặng lắng nghe. Cụ Mết là một thủ lĩnh quân sự tài ba, quyết đoán. Để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu, cụ Mết đã lãnh đạo dân làng Xô Man đêm đêm thức mài vũ khí, ban ngày đi phát rẫy, trồng củ pom chu và sắn xanh mượt cả núi rừng. Trong những giờ phút nghiêm trọng nhất giữa sự sống và cái chết, cụ Mết đã chỉ huy đội du kích từ trong rừng bất ngờ xông vào nhà ưng tiêu diệt lũ ác ôn. Tiếng hô của cụ Mết vang lên : Chém ! Chém hết ! Những cây rựa sáng loáng vung lên. Dưới lưỡi mác của cụ Mết, thằng Dục chỉ huy nằm gục trên vũng máu. Mười tên giặc bị giết chết, xác ngổn ngang quanh đống lửa xà nu giữa nhà ưng.
Trong đêm ấy, tiếng chiêng nổi lên dồn dập, thôi thúc, cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng… Cụ Mết trong tư thế lẫm liệt của người chiến thắng đã sang sảng kêu gọi dân làng vùng lên cầm vũ khí giết giặc. Tiếng của cụ Mết vang vọng khắp núi rừng: Thế là bắt đầu rồi ! Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên !
Cụ Mết được tác giả miêu tả như một người anh hùng của buôn làng. Cụ đã thắp sáng ngọn lửa chiến đấu và chiến thắng và chân lí lịch sử: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo! Cụ đã nhắc nhở dân làng Xô Man phải giữ lấy truyền thống thương núi, thương nước và truyền lại cho con cháu sau này. Cụ Mết là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc, chứng minh cho tài năng của tác giả trong việc khắc họa, xây dựng tính cách nhân vật đậm chất anh hùng của sử thi huyền thoại.
Nhân vật Tnú.
Hình tượng nhân vật để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc là Tnú. Tnú là một chàng trai dũng cảm phi thường, là niềm tự hào của dân làng Xô Man. Cụ Mết đã nói về anh với tất cả tình yêu thương, tự hào: …Đấy, nó đấy, nó đi giải phóng quân đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm… Nó đấy. Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta. Cuộc đời Tnú đầy máu và nước mắt như cuộc đời cùuar dân làng Xô Man dưới ách thống trị tàn bạo của Mĩ – Diệm. Con đường chiến đấu của Tnú là con đường quật khởi của quê hương anh. Hai lần Tnú đi bộ ba ngày đêm lên núi Ngọc Linh để lấy một xà lét đá trắng về làm phấn, lấy một gùi đá mài đem về cho dân làng Xô Man mài Vũ khí. Hành động ấy nói lên khao khát ánh sáng cách mạng và tự do của anh. Phẩm chất anh hùng của Tnú được rèn luyện trong máu lửa chiến tranh. Thuở nhỏ Tnú vào rừng tiếp tế và bảo vệ anh Quyết, một cán bộ cách mạng họat động bí mật. Tnú được anh dạy chữ. Tuy còn nhỏ nhưng Tnú đã tin rằng: Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn. Đi giao liên, lúc thì Tnú xé rừng mà đi, vượt qua vòng vây của giặc, lúc thì cưỡi lên thác, băng băng như một con cá kình… Bị giặc bắt, Tnú nhanh trí nuốt ngay thư bí mật. Bị giặc tra tấn dã man, bắt khai ra ai là cộng sản, cộng sản ở đâu ? Tnú đã đặt tay lên bụng mình và nói: Ở đây này. Lưng đầy vết chém của quân thù nhưng Tnủ vẫn bất khuất, hiên ngang, giữ vững lòng trung thành với cách mạng.
Khi dân làng Xô Man âm thầm mài vũ khí chuẩn bị quật khởi đứng lên chống Mĩ – Diệm thì Tnú trở thành chỉ huy đội du kích. Bọn giặc ở đồn Đắc Hà sợ hãi, gọi anh là con cọp… Tnú căm thù sôi sục quân giặc dã man. Mắt anh trở thành hai cục lửa lớn khi chứng kiến lũ ác ôn giáng trận mưa cây sắt xuống vợ con anh. Anh coi bọn thằng Dục là đồ ăn thịt người. Tnú đã nhảy xổ vào lũ giặc để cứu vợ con, hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. Cảnh tượng Tnú bị giặc bắt và tra tấn, đốt cháy mười đầu ngón tay bằng giẻ tẩm nhựa xà nu đă gây xúc động mạnh mẽ tâm hồn người đọc bởi tính chất bi tráng của nó : Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc. Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng. Trời ơi! Cha mẹ ơi ! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đâu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu lên… Người cộng sản không thèm kêu van… Khí phách của Tnú là khí phách của người anh hùng trong các sử thi Tây Nguyên. Ở đọan văn sau, tác giả kể tình tiết Tnú xông xuống hầm ngầm giặc, không dùng súng, không dùng dao mà chì giết thằng chỉ huy ác ôn bằng mười ngón tay, ngón nào cũng bị cháy mất một đốt – đã nói lên ý chí căm thù giặc không bao giờ nguôi trong lòng anh. Lòng căm thù đã tiếp thêm sức mạnh cho Tnủ chiến đấu và chiến thắng.
Nguyễn Trung Thành có chủ ý khắc họa đôi bàn tay Tnú để tô đậm phẩm chất anh hùng của đứa con yêu quý của dân làng Xô Man. Ngọn lửa xà nu cháy rừng rực trên mười ngón tay Tnú đã làm sáng bừng lên dũng khí và tinh thần bất khuất của anh. Dưới ngòi bút vừa hiện thực vừa trữ tình của Nguyễn Trung Thành, nhân vật Tnú mang vẻ đẹp huyền thoại.
Nhân vật Mai, Dít, Heng.
Mai và Dit là hình ảnh người phụ nữ mới của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mĩ. Thuở bé, Mai đã vào rừng tiếp tế và bảo vệ cán bộ. Mai học chữ rất giỏi, ba tháng đọc được chữ, sáu tháng làm dược toán hai con số. Khi đã trở thành người vợ, người mẹ, Mai đã dũng cảm lấy thân mình để bảo vệ đứa con thơ trước trận mưa cây sắt của thằng giặc khát máu. Dit là em gái của Mai. Lớn lên, Dit càng giống Mai. Dit bị giặc bắt khi vào rừng tiếp tế cho du kích. Lũ giặc đã biến Mai thành tẩm,bia sống. Chúng bắn sượt qua tai, bắn sém tóc Dit. Váy áo Dit bị xé rách từng mảng, Dit vẫn đứng yên, đôi mắt mở to. Từ viên đạn thứ mười trở đi, Dit chùi nước mắt, im bặt, nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng. Chỉ ba năm sau, Dit đã trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội, chỉ huy dân làng Xô Man đánh giặc. Có thể nói Mai và Dit tiêu biểu cho những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Tây Nguyên đã gắn bó cuộc đời mình với cuộc kháng chiến đau thương mà oanh liệt chống ngoại xâm của dân tộc.
Đọc truyện Rừng xà nu, người đọc không thể nào quên cậu bé Heng, mặc dù tác giả chỉ phác họa về em một vài nét. Đó là một chú bé nhanh nhẹn, thông minh, thuộc mọi con đường, những hầm chông, những giàn thò, những “ác chiến điểm” của làng mình như thuộc lòng bàn tay. Heng đeo chéo một khẩu súng trường mát ngang lưng, ra vẻ một người lính thực sự. Dẫn đường cho Tnú về đến làng, Heng tháo cây súng chống xuống đất và vui vẻ gọi to: “Người già ơi, có khách đấy!” Nhân vật cậu bé Heng chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc nhưng đầy ấn tượng. Đó là cái tài của Nguyễn Trung Thành trong miêu tả nhân vật. Bé Heng đã trưởng thành cùng cuộc chiến đấu vũ trang của dân làng Xô Man. Tuy còn nhỏ nhưng trong em đã hình thành phẩm chất cùa người anh hùng. Heng giống như cây xà nu mới mọc, vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã… bởi bom đạn giặc.
Các nhân vật chính như Tnú, cụ Mết… là kết tinh cao độ những phẩm chất tiêu biểu của dân tàng Xô Man: gắn bó với quê hương, trung thành với cách mạng, căm thù giặc sâu sắc, dũng cảm, kiên cường, bất khuất. Số phận các nhân vật này liên quan chặt chẽ với số phận của cả cộng đồng. Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Trung Thành mang những nét độc đáo đượm khí vị Tây Nguyên anh hùng. Nếu rừng xà nu tượng trưng cho các thế hệ dân tộc Tây Nguyên kiên cường, thì các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng là hình ảnh những lớp cây xà nu đại diện cho các thế hệ nối tiếp nhau dân làng Xô-man, được khắc họa thật sinh động.
Câu chuyện cụ Mết kể bên bếp lửa nhà ưng trong đêm Tnú về thăm làng giống như một dòng sông hồi tưởng cuồn cuộn chảy trôi, khiến cho Tnú thấy hiển hiện rõ ràng trong trí nhớ những sự kiện đau thương mà oanh liệt của quá khứ chưa xa. Rõ ràng là lịch sử cùa làng Xô Man về mặt nào đó rất giống với cánh rừng xà nu đầu làng. Đó là một chuỗi dài đau thương: Những người bị giặc giết vì nuôi giấu cán bộ như anh Xút bị treo cổ trên cây ở đầu làng, bà Nhan bị chặt đầu cột tóc treo đầu súng. Tấm lưng Tnú – khi còn là một cậu bé giao liên ngang dọc vết đao chém, máu chảy ra rồi đặc quyện lại, tím như nhựa xà nu, Anh cán bộ Quyết hi sinh. Rồi Mai gục xuống và đứa con của hạnh phúc, tình yêu cũng chết dưới đòn đánh tàn bạo của kè thù. Còn Tnú lửa xà nu đốt cháy mười ngón tay anh, lửa xà nu như thiêu đốt trong lồng ngực, như cháy cả ruột gan anh… Bên bếp lửa nhà ưng, cụ Mết kể cho dân làng nghe bằng giọng kể chậm rãi, trang trọng như muốn truyền cho các thế hệ con cháu những trang lịch sử đau thương, uất hận của làng: Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe…
Cách miêu tả và kể chuyện của tác giả trong Rừng xà nu gợi nhớ tới lời kể “khan” của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Bên bếp lửa chung của làng, những bài “khan” được kể như hát suốt nhiều đêm. Những trường ca đầy chất sử thi kể về lịch sử mang màu sắc huyền thoại của bộ tộc, về những người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh và khát vọng của cộng đồng như Đăm San, Xinh Nhã, Đăm Bơri,… Câu chuyện của Tnú mà cụ Mết kể cho dân làng nghe là câu chuyện của thời hiện tại nhưng vẫn được kể như là câu chuyện lịch sử, với giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng của sử thi, với thái độ chiêm ngưỡng đối với những con người và sự kiện được kể lại.
Khuynh hướng sử thi trong tác phẩm Rừng xà nu có sự kết hợp chặt chẽ với cảm hứng lãng mạn, tạo nên chất trữ tình cách mạng. Giọng điệu chung của tác giả là trang trọng, say mê ca ngợi hòa quyện với suy tư sâu lắng. Vùng đất và con người Tây Nguyên mà nhà văn gắn bó máu thịt đã trở thành nguồn đề tài vô tận để nhà văn viết nên những tác phẩm thể hiện rõ tài năng và phong cách nghệ thuật của mình.
- Kết bài:
Truyện ngắn Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành viết ra trong thời kì chiến tranh chống Mĩ với cảm hứng sử thi gắn với cảm hửng lãng mạn. Câu chuyện hướng vào những vấn đề trọng đại của đời sống dân tộc, của đất nước với cái nhìn lịch sử về quan điểm cộng đồng. Hình ảnh hùng vĩ và sức sống bất diệt của rừng núi Tây Nguyên gợi cho người đọc nghĩ đến Tổ quốc và dân tộc. Với giọng văn linh hoạt khi âm vang, khi sâu lắng, tha thiết, trang nghiêm và những hình tượng nghệ thuật nổi bật, truyện ngắn Rừng xà nu đã giúp chúng ta hiểu rỗ hơn nguyên nhân dân tộc Việt Nam đánh thắng giặc Mĩ, để từ đó càng thêm tin tưởng vào tương lai tươi sáng trong thời đại mới xây dựng và phát triển đất nước ngày càng giàu đẹp.