cam-nhan-doan-trich-trao-duyen

Cảm nhận đoạn trích Trao Duyên (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)

Cảm nhận đoạn trích Trao Duyên (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)

  • Mở bài:

Nguyễn Du là một thiên tài văn học, nhà văn hóa lớn của dân tộc ta. Truyện Kiều là kiệt tác văn học của Nguyễn Du. Đoạn trích Trao duyên thuộc phần Gia biến và lưu lạc, lúc Thúy Kiều trao gửi tình duyên cảu mình với Kim Trọng cho Thúy Vân để bán mình để chuộc cha và em, khởi đầu bi kịch cho quãng đời 15 năm trời lưu lạc của Thuý Kiều. Với tài nghệ miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật của Nguyễn Du, đoạn trích Trao duyên ca ngợi tình yêu sâu sắc của Thuý Kiều đối với Kim Trọng qua việc thể hiện nỗi đau đớn tột cùng mà nàng phải chịu đựng khi phải trao duyên; qua đó thể hiện lòng cảm thông, thương yêu sâu sắc của Nguyễn Du đối với con người “bạc mệnh”.

  • Thân bài:

Đây là một trong những đoạn ở vị trí mở đầu cho cuộc đời lưu lạc đầy đau khổ của Thuý Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt giam do có kẻ vu oan, Thuý Kiều phải bán mình làm vợ Mã Giám Sinh để lấy tiền đút lót quan lại cứu cha và em. Việc nhà đã tạm yên, Kiều mới nghĩ đến tình duyên lỡ dở của mình. Trước hết, nàng nghĩ cho người mình yêu, phận mình dù thế cũng đành, nhưng cảm thấy có lỗi với Kim Trọng.Phải làm thế nào cho người yêu đỡ khổ, suy nghĩ mãi, trong đêm cuối cùng, nàng quyết định nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.

Xưa nay người ta chỉ trao nhau vật chất chứ có ai trao duyên bao giờ. Thế nhưng Thuý Kiều lại phải làm cái điều chưa ai từng làm ấy:

“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Lời ướm hỏi nghe thật xót xa. Trong quan niệm của người xưa, “tình” thường gắn liền với “nghĩa”. Giữa Thuý Kiều và Kim Trọng đã có lời thề trăm năm tạc một chữ đồng đến xương nhưng sự đâu sóng gió bất kì, vì chữ “hiếu” nàng không thể giữ lời thề với chàng Kim nên đành nhờ Thuý Vân trả nghĩa hộ mình. Nguyễn Du đã rất tinh tế khi để Kiều dùng từ cậy mà không dùng từ nhờ vì cậy có ý tin chắc là người khác nhất định sẽ nghe mình.

“Chịu lời”“nhận lời” có vẻ như nhau nhưng chịu lời là nhận lời làm việc không do mình tự nguyện hoặc một việc khó chối từ. Hai chữ “mặc em” chốt lại màn dạo đầu nhưng lại mang hàm ý giao phó trách nhiệm. “Lạy”, “thưa” là hành động của Thúy Kiều trái hẳn với vị thế làm chị nhưng chứng tỏ việc Kiều đang nhờ Vân là việc trọng đại. Thúy Kiều không chắc Thuý Vân đã nhận lời nên mỗi từ Thuý Kiều nói ra đều được cân nhắc kĩ càng. Không thấu hiểu, đồng cảm với nhân vật của mình, không phải là bậc thầy của ngôn từ, Nguyễn Du không thể viết những câu thơ với những từ ngữ đắt như thế.

Kiều thuật lại một cách vắn tắt nhưng khá đầy đủ về cảnh ngộ của mình:

“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”

Lí lẽ nàng đưa ra để thuyết phục Thúy Vân rất hợp lí: Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai và dường như nàng diễn đạt rất trôi chảy. Nhưng thực chất, sau những lời nói ấy, trái tim Kiều bắt đầu cuộn lên nỗi đau đớn khôn xiết. Nỗi đau đó nàng vẫn phải giấu kín trong lòng để trao duyên cho em một cách trọn vẹn:

Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Để rồi, đến khi phải trao cho Thuý Vân những kỉ vật của tình yêu, trong Kiều nỗi đau đã cuộn lên thành những mâu thuẫn:

Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ, vật này của chung.

“Tờ mây” là tín vật ghi lời thề nguyền của Kim Kiều. Chiếc vành mây trước đây chàng Kim trao cho Kiều làm của tin giờ nàng đều trao cả cho Thuý Vân. Đành phải trao duyên (trao nhiệm vụ trả nghĩa chàng Kim) cho em để em thay mình đền nghĩa người yêu nên Kiều mới nói duyên này thì giữ. Duyên phải trao đi vì nàng không thể cùng chàng Kim trọn lời thề ước. Còn tình yêu Kiều dành cho Kim làm sao mà trao được. Nó vẫn ở mãi trong lòng nàng. Và những kỉ vật kia chính là dấu tích của mối tình đầu, chính là vật lưu giấu tình yêu Kim Kiều. Phải trực tiếp trao nó vào tay Thúy Vân, có lẽ nào Kiều không tiếc nuối? Hai chữ của chung đủ để diễn tả tất cả: nỗi tiếc xót, nỗi đau và sự cố gắng níu kéo (chị vẫn có phần trong đó). Sau tất cả nỗi niềm tâm trạng đó, chúng ta có thể cảm nhận tình yêu sâu đậm Thuý Kiều dành cho Kim Trọng. Với Kiều, hạnh phúc của người mình yêu là điều hơn hết. Đó chính là lí do khiến nàng trao duyên cho Thuý Vân.

Trong hoàn cảnh ấy, Thúy Vân không thể từ chối được. Các điển tích keo loan, tơ duyên cùng các thành ngữ tình máu mủ, lời nước non, thịt nát, xương mòn, ngậm cười chín suối… thể hiện sự chân thành, tha thiết mà đau đớn của Thúy Kiều khi quyết định cho em.

Mâu thuẫn nảy sinh ở chi tiết, vật thì trao cho em “giữ” nhưng duyên thì muốn để lại làm “của chung”. Cũng có thể xem là mâu thuẫn giữa cảm xúc và lí trí. Về lí trí, Kiều muốn Kim Trọng được hạnh phúc nên gá nghĩa Thuý Vân cho chàng. Nhưng về tình, vì tình yêu của Kiều với chàng Kim sâu sắc quá nên không muốn trao gửi. Đây hoàn toàn là tâm lí của tình yêu sâu nặng và đích thực. Tình yêu sâu nặng mà vẫn phải trao duyên chứng tỏ sự hi sinh của Kiều rất lớn lao.

Đành phải (trao nhiệm vụ trả nghĩa chàng Kim) cho em để em thay mình đền nghĩa người yêu nên Kiều mới nói duyên này thì giữ. Duyên phải trao đi vì nàng không thể cùng chàng Kim Trọng lời thề ước. Nhưng trao đi không có nghĩa là trao hẳn mà chỉ là để cho em giữ. Tình yêu Kiều dành cho Kim vẫn ở mãi trong lòng nàng. Và những kỉ vật kia chính là dấu tích của mối tình đầu, chính là vật lưu giấu tình yêu Kim – Kiều. Phải trực tiếp trao nó vào tay Thuý Vân, có lẽ nào Kiều không tiếc nuối? Hai chữ của chung đủ để diễn tả tất cả: nỗi tiếc xót, không đành lòng trao lại cho em, nỗi đau và sự cố gắng níu kéo (chị vẫn có phần trong đó).

Tình yêu của Thuý Kiều dành cho Kim Trọng thật sâu đậm. Với Kiều, hạnh phúc của người mình yêu là điều hơn hết. Kiều đau đớn, xót xa tự nhận mình là người mệnh bạc:

“Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa

Hai chữ “mệnh bạc” cho thấy ý thức sâu sắc về cuộc đời, số phận bạc bẽo của Kiều. Với nàng, đó là một định mệnh bất di bất dịch. Thúy Kiều đã rất đau đớn khi phải cho em, dứt tình với chàng Kim. Nguyễn Du đã rất am hiểu và tinh tế khi diễn tả tâm trạng nhân vật.

Sau khi nói lời trao duyên, Kiều đang dần quên sự có mặt của Thúy Vân. Trong khi nói với em, Kiều cảm tưởng như sống lại với các kỉ niệm của tình yêu với Kim Trọng. Nàng như sống trong hồi ức qua những kỉ vật và nhất là tưởng nhớ lại sự kiện đêm thề nguyền thiêng liêng:

Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.

Rõ ràng trong tâm hồn Kiều, những kỉ niệm đẹp đẽ của tình yêu có sức sống thật mãnh liệt. Nguyễn Du thật tinh tế khi gợi lại các hình ảnh quá khứ: Cảnh chàng Kim cho thêm hương vào lò hương (đài sen nối sáp lò đào thêm hương) và cảnh Kiều đàn cho Kim Trọng nghe (So dần dây vũ dây văn) trong đêm thề nguyền. Mỗi kỉ niệm đã qua đều khắc sâu trong lòng nàng. Điều đó chứng tỏ tình yêu nàng dành cho chàng Kim cực kì sâu sắc.

Càng yêu sâu sắc, Kiều càng cảm thấy cuộc đời trống trải, vô nghĩa khi không còn tình yêu. Đó là lí do khiến nàng liên tưởng đến cái chết – cái chết đầy oan nghiệt (Kiều Nguyệt Nga trong Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu) cũng nói: Hiu hiu gió thổi ngọn cây Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha.) Nhiều từ ngữ phản ánh ý nghĩ này trong nàng: “Mai sau Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. (Kiều nhớ lại cảnh Đạm Tiên đã từng hiện về qua làn gió ào ào đổ lộc rung cây khi Kiều thắp hương và làm thơ bên mộ Đạm Tiên), hồn, dạ đài, người thác oan.

Tình yêu không là vật chất, không thể trao đi rồi thì không còn nữ Kiều cho em để rồi phải nhận lại nỗi đau đớn khôn xiết. Nỗi đau đó vốn dĩ không thể được bộc lộ trong lời Thuý Kiều nói với em. Hơn thế, nếu chỉ đơn thuần nói với Thuý Vân thì cảm xúc nhân vật sẽ không đạt tới cao trào, bi kịch của thân phận và tình yêu sẽ không đạt tới đỉnh điểm, nhân cách cao đẹp của Kiều cũng không có điều kiện lộ hiện. Vậy nên Nguyễn Du đã xây dựng những lời độc thoại nội tâm của Kiều:

Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Kiều đã quên hết xung Nàng chỉ còn khóc cho mình, khóc cho mối tình đầu ngắn ngủi. Đó là tiếng khóc cho một số phận, tiếng kêu đứt ruột cho một mối tình:

“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân[14],
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Các thành ngữ liên tiếp “trâm gẫy”, “gương tan”, “bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi” cực tả nỗi đau mất mát, sự tan vỡ không thể hàn gắn trong Kiều. Trong đoạn thơ ngắn, ba lần Nguyễn Du để Kiều gọi Kim Trọng bằng các từ khác nhau: tình quân, Kim lang, chàng. Đáng chú ý nhất là từ Kim Nó được láy lại, gắn với những thán từ hô gọi ôi, hỡi đầy thê thiết. Trong tâm tưởng, Thuý Kiều đã coi Kim Trọng là chồng cho nên tiếng gọi đó vừa thể hiện sự tiếc nuối vì tình lứa đôi lỡ dở, vừa hàm chứa nỗi đau đớn khôn xiết của nàng. Nàng gọi chàng Kim để nhận lỗi về mình, để oán trách chính mình, oán trách mình là kẻ phụ bạc.

Tiếng khóc cho mối tình tan vỡ, tiếng khóc cho thân phận khổ đau cất lên từ nhân vật chính của tác phẩm đã đánh động tâm can bao người đương thời và hậu thế. Như thế, ở đây tiếp tục xuất hiện mâu thuẫn không thể giải quyết giữa tình yêu mãnh liệt và sự chia biệt vĩnh viễn, tức là giữa lí và tình.

Lời thơ thể hiện tấm lòng vị tha, rất mực yêu Kim Trọng của Thúy Kiều. Hơn khi nào hết, đây là giây phút đáng thương nhất cuộc đời Thuý Kiều. Bởi lẽ, mới đó thôi, người con gái ấy còn đang trong cảnh êm đềm trướng rủ màn che, vậy mà giờ đây đã lỡ làng. Lời thơ cất lên cũng chính là tiếng nói thương thân xót phận của một người con gái tha thiết với tình yêu. Mọi cung bậc cảm xúc diễn ra trong Kiều đều hết sức hợp lí. Nguyễn Du đã miêu tả dòng diễn biến nội tâm của nàng một cách chân thực. Mỗi từ ngữ, mỗi hình ảnh đều được lựa chọn kĩ lưỡng nhằm khắc hoạ tâm trạng nhân vật.

Chữ duyên theo giáo lí của nhà Phật là nguyên do tạo ra số phận, sau này được hiểu rộng hơn là sự định sẵn từ kiếp trước cho tình cảm của hai người (thường là tình cảm vợ chồng). Duyên là một khái niệm có tính chất vô hình, do đó trao duyên là một điều khó khăn, nhất là với những người có đời sống nội tâm sâu sắc như Thuý Kiều. Trao duyên là một sự hi sinh rất lớn. Trước đó Kiều đã hi sinh tình yêu để làm bổn phận người con hiếu thảo: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nay, trao duyên cho Vân là hi sinh tình yêu của mình vì hạnh phúc của người mà mình yêu. Do vậy, hành động của Kiều làm cho hình tượng nhân vật trở nên cao cả hơn, đẹp đẽ và đáng khâm phục hơn.

Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc, tạo ra những mẫu người với những tính cách tiêu biểu cho cái đẹp, cái xấu, cái thiện, cái ác… trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát. Nghệ thuật tự sự, hấp dẫn, cảm động, tạo ra những tình huống, những bi kịch. Lúc miêu tả, lúc tả cảnh ngụ tình, lúc đối thoại, câu truyện về nàng Kiều diễn biến qua trên ba nghìn câu thơ liền mạch.

  • Kết bài:

Lời trao duyên kết thúc bằng một lời than, bằng tiếng kêu đơn đau, tuyệt vọng. Tuy nhiên, tình yêu tan vỡ nhưng khát vọng tình yêu được khẳng định. Đó là nét đẹp cao quý của tâm hồn Kiều, là giá trị nhân văn bền vững của Truyện Kiều. Đoạn thơ có bi kịch, đau thương nhưng không thê lương, đen tối, trái lại vẫn ngời lên ấnh sáng niềm tin vào tình yêu, vào con người. Đoạn thơ cho ta thấy “sức cảm thông lạ lùng” của đại thi hào dân tộc đối với những khổ đau và khát vọng tình yêu của con người. Qua Trao duyên ta còn thấy bút pháp miêu tả nội tâm đặc sắc của tác giả Truyện Kiều. Nguyễn Du đã kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ bác học, sử dụng điển tích, thi liệu văn học cổ Trung Hoa với ca dao, tục ngữ, thành ngữ… nâng lên thành một ngôn ngữ văn chương trong sáng, trau chuốt, mượt mà, mẫu mực. Cho đến nay chưa có nhà thơ Việt Nam nào viết thơ lục bát trên ba nghìn câu hay bằng Nguyễn Du.


Tham khảo:

  • Mở bài:

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, một nhân cách lớn, một nhà văn, nhà thơ vĩ đại. Truyện Kiều được xem là kiệt tác của nền văn học được dịch ra nhiều thứ tiếng. Đoạn trích Trao duyên trích từ câu 723 đến 756 trong tác phẩm “Truyện Kiều” phần gia biến và lưu lạc. Đoạn trích miêu tả diễn biến tâm trạng của Kiều trong đêm cuối cùng trao duyên cho Thúy Vân nhờ em trả nghĩa với chàng Kim hộ mình. Đó là những bi kịch đầy đau đớn của một kiếp tài hoa bạc mệnh. Qua đó thể hiện tấm lòng đồng cảm, xót thương của tác giả.

  • Thân bài:

Sau đêm thề nguyện giữa Kim Trọng và Thúy Kiều, Kim Trọng phải về gấp hộ tang chú ở Liễu Dương. Tai nạn ập đến nhà Kiều vì sự vu oan của thằng bán tơ. Cha và em trai bị đánh đập tàn nhẫn, của cải bị cướp sạch. Kiều buộc phải bán mình chuộc tội cho cha và em. Công việc nhà tạm ổn, nhưng mối tình của mình thì lỡ dở. Chỉ còn lại một đêm ở nhà, ngày mai phải đi theo Mã Giám Sinh. Thúy Kiều đã cậy nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng.

Kiều trao duyên cho Vân, nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim. Đó là một việc vô cùng khó khăn. Bởi thế, Thúy Kiều đã thuyết phục Thúy Vân bằng những hành động, lời nói, cử chỉ sâu sắc, tinh tế cùng lí do trao duyên hợp tình, hợp lí. Là người con gái thông minh, nhạy bén, khi trao duyên cho em, Thúy Kiều đã có những lời lẽ, hành động đặc biệt khác thường. Lời nhờ cậy của Kiều vô cùng khéo léo và tha thiết:

“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.

Để Thúy Vân  hận lời, Thúy Kiều đã “cậy” em chứ không phải “nhờ”. Từ “cậy” với thanh trắc mang âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói, còn mang hàm nghĩa là trông mong, giúp đỡ, hi vọng tha thiết, sự gửi gắm đầy tin tưởng. Lại thêm “chịu lời” chứ không phải là “nhận lời”. “Chịu” là nài ép, bắt buộc, không thể từ chối. Còn “nhận” mang âm sắc nhẹ nhàng hơn. Có thể thấy, Thúy Vân bị ép vào một thế dù không muốn cũng phải nhận tình yêu mà Kiều trao. Lời lẽ cậy nhờ của Kiều rất đẹp đẽ và chính xác, chặt chẽ. Với hai từ “chịu lời”, càng thể hiện rõ sự tinh tế của Kiều trong cách dùng từ, ở đây hai từ này đã thể hiện sự thấu hiểu, thông cảm của Kiều đối với vị trí của Thúy Vân, nàng hiểu rõ rằng chuyện trao duyên này là chuyện khá khó xử và vô cùng miễn cưỡng, có lẽ rằng Thúy Vân sẽ khó lòng mà chấp nhận được.

Hành động nhờ cậy cũng rất kính cẩn trang trọng với người bề trên hoặc người hàm ơn: “ngồi lên”, “lạy rồi sẽ thưa”. Sự thay bậc đổi ngôi, đi ngược với lễ giáo phong kiến nhưng chấp nhận được, bởi: Kiều coi Vân như ân nhân của mình. Kiều trân trọng tình yêu với Kim Trọng. Nàng không muốn phụ Kim Trọng, nhưng cũng hiểu được nhờ em trả nghĩa thay mình, nối tiếp mối duyên này là bất công và thiệt thòi cho em. Vì thế, Kiều cúi mình trước Vân. Vào lúc này, Kiều đứng ở vị thế của người chịu ơn với người giúp đỡ mình mà không phải vị thế người chị với em gái. Qua cách nói thể hiện sự thông minh, khéo léo của Thúy Kiều.

Trao duyên với Kiều không phải việc gì quá dễ dàng. Nàng mở lời cậy nhờ em rồi thật lòng tâm sự, giãi bày, mong muốn Thúy Vân thấu hiểu, thông cảm và nhận lời:

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.”

Lí lẽ trao duyên của Thúy Kiều kết hợp hài hòa giữa lý – tình tròn vẹn. Trước hết, Kiều kể về tình yêu với Kim Trọng, nguyên nhân sự tan vỡ và quyết định của mình: “khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề”. Tiếp đến, Kiều chỉ rõ nguyên nhân tan vỡ: “Sự đâu sóng gió bất kì”. Điều đó khiến Kiều khó xử khi đưa ra quyết định: “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Thành ngữ, những điển tích, những ngôn ngữ giàu hình ảnh“giữa đường đứt gánh tương tư”, “mối tơ thừa”, “quạt ước”, “chén thề” đã vẽ nên một mối tình nồng thắm nhưng mong manh, dang dở và đầy bất hạnh của Kim – Kiều.

Trong nỗi đau xót, bao kỉ niệm tình yêu tươi đẹp ùa về. Nhưng hiện thực trêu người, thành ngữ “đứt gánh tương tư” nhấn mạnh nỗi đau tình yêu dang dở. Mối tình tốt đẹp với chàng Kim chưa kịp viên mãn đã bị sóng gió ập đến ngăn trở. Kiều đau khổ nhưng phải dằn lòng lại, trao gửi cho Vân. Nàng dùng điển tích “keo loan” thể hiện ý định muốn Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng. Đồng thời nàng cũng bày tỏ sự áy náy, day dứt khi đem tơ duyên của mình trở thành “tơ thừa” mặc em chắp nối.

Từ “khi” được lặp lại 3 lần gợi nhắc khoảng thời gian tươi đẹp, nhấn mạnh mối duyên tình sâu đậm với chàng Kim. Từ đó khắc sâu nỗi đau khổ, xót xa trong tâm trạng của Kiều khi nói ra những lời này. Nàng đau đớn bởi tình yêu tan vỡ, đồng thời cũng xót xa cho thân phận trớ trêu của chính mình.

Để cho em hiểu rõ hoàn cảnh và cảm thông, Thúy Kiều nêu rõ những lí do khiến Kiều trao duyên cho em:

“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Gia đình Kiều gặp biến cố lớn “sóng gió bất kì”, Kiều buộc phải chọn hoặc “hiếu” với cha mẹ hoặc “tình” với Kim Trọng, Kiều chọn hi sinh tình. Lời tỏ bàu gợi ra tình cảnh ngang trái, khó xử của mình để em thấu hiểu. Tình yêu đẹp đẽ vừa chớm nở, chưa kịp thành hình đã bị tan vỡ, trái tim nàng đau đớn vô cùng. Nàng hết lòng thuyết phục Vân, mong em hiểu và chấp nhận lời thỉnh cầu ngang trái:

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Thúy Kiều đã khéo léo đưa ra ba lý lẽ. Trước hết là Vân còn trẻ, tuổi xuân còn dài, còn cả tương lai phía trước. Thứ hai là tình chị em máu mủ ruột thịt, giúp chị nghĩa là giúp cả gia đình. Cuối cùng là cái chết của bản thân. Kiều viện đến cả cái chết để thể hiện sự cảm kích thật sự của mình khi Vân nhận lời. Từng lời lẽ đều thể hiện quyết tâm thuyết phục em của Thúy Kiều. Kiều đã chọn chữ hiếu, nhưng tình nghĩa của chàng Kim rất quan trọng. Kiều kìm nén đau thương, thua thiệt của bản thân. Nàng chấp nhận thịt nát xương mòn, chỉ mong Vân giúp mình nối duyên với Kim Trọng. Sâu trong tâm hồn đang vụn vỡ của Kiều là nỗi đau phụ bạc Kim Trọng và mong muốn bù đắp mãnh liệt cho chàng. Cách lập luận hết sức chặt chẽ, thấu tình cho thấy Thúy Kiều là người sắc sảo, tinh tế, có đức hi sinh, một người con hiếu thảo, trọng tình nghĩa.

Sau khi lay động Thúy Vân bằng cả lí trí và trái tim, Thúy Kiều trao kỉ vật cho em: chiếc hoa, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh tượng trưng, ước lệ về kỉ niệm tình yêu sâu nặng, thề ước thiêng liêng giữa Kim Trọng và Thúy Kiều:

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”.

Kiều trao những kỉ vật gắn bó đơn sơ mà thiêng liêng, gợi quá khứ hạnh phúc giữa mình với Kim Trọng: “chiếc ành”, “tờ mây”. Những kỉ vật ấy đã trở thành sinh mệnh của tình yêu, sinh mệnh của sự sống trong trái tim Thúy Kiều. Dặn Vân “Duyên này thì giữ vật này của chung”. “Của chung” là của Kim, Kiều nay là cả của Vân nữa. “Của tin” là những vật gắn bó gợi tình yêu thiêng liêng của Kim – Kiều: mảnh hương, tiếng đàn. Sự giằng xé trong tâm trạng Thúy Kiều: Kiều chỉ có thể gửi gắm mối duyên dang dở cho Vân chứ không thể trao hết tình yêu mặn nồng xưa kia giữa nàng và Kim Trọng.

Với tâm trạng đầy tiếc nuối, xót xa, cách Thúy Kiều trao kỉ vật cho em đầy sự nâng niu, trân trọng. Nàng chợt nhận ra trao đi kỉ vật là vĩnh biệt tình yêu. Biết bao nhiêu đau đớn, biết bao nhiêu xót xa thể hiện qua hai từ “của tin”, “của chung”. Kiều như muốn níu giữ lại hương vị tình yêu trong niềm tiếc nuối vô hạn. Cấu trúc câu thơ thể hiện sự mâu thuẫn giằng xé giữa lí trí và tình cảm: vừa níu giữ, vừa dứt khoát gửi trao mối tình dang dở: gửi trao những kỉ vật thiêng liêng và trao tình duyên cho em. Biết bao tiếc nuối, xót xa được thể hiện qua tâm trạng của Thúy Kiều: kỉ vật gợi kí ức, kí ức gợi kỉ niệm, trao đi kỉ vật nhưng vẫn không quên được mối tình sâu sắc đó.

Nguyễn Du không đặt những kỉ vật ấy vào trong cùng một câu thơ mà lại chia ra thành mấy câu thơ. Có lẽ làm như thế để cho chúng ta thấy được cảm xúc đau buồn của nàng Kiều khi phải trao lại những kỉ vật ấy một cách đầy luyến tiếc cho em gái mình. Nàng như cố níu giữ lấy những kỉ vật tình yêu thế nhưng nàng cũng buộc mình phải đưa cho Vân những kỉ vật ấy nếu không thì sẽ không thể nào mà đền đáp tấm ân tình của chàng Kim trọng được. Có thể nói qua những câu thơ trên tâm trang của thúy Kiều được hiện thật sự rất rõ nét. Đó chính là tâm trạng mong muốn trở lại những ngày tháng trước đây. Đồng thời luyến tiếc với những kỉ vật tình yêu ấy.

Kiều đau đớn, xót xa quay trở về thực tại. Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại nội tâm. Sau tất cả những việc cần làm, Kiều đau đớn như nghĩ đến tương lai mịt mờ với cái chết, có lẽ là nàng tưởng tượng ra cảnh mai này Kim và vân sống hạnh phúc mà nàng phải chứng kiến cảnh yêu thương của họ thì nàng sống không bằng chết. Hay từ khi xác định bán thân nàng đã quyết định chọn cái chết để kết thúc cuộc đời này:

“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”.

Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng một loạt từ ngữ, hình ảnh, điển tích với tần suất dày đặc: “đốt hương”, “ngọn cỏ”, “lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn nặng lời thề”, “nát thân bồ liễu”, “dạ đài”, “cách mặt khuất lời”, “người thác oan” để thể hiện sự tự ý thức của Thúy Kiều về bi kịch tình yêu dang dở, tan vỡ và bi kịch thân phận trái ngang, lênh đênh trôi nổi. Kiều nói với Vân như nói với chính mình. Hàng loạt từ ngữ gợi tả về cái chết được sử dụng để thể hiện dường như với nàng lúc này, viễn cảnh tương lai thật mịt mờ, xa xăm. “Mai sau dù có bao giờ” – câu thơ như một tiếng than, lại như một câu hỏi xoáy vào tâm can, vừa thể hiện sắc thái lo lắng, vừa hi vọng, nhưng hi vọng vừa lóe lên chợt hóa thành ảo vọng: “Đốt lò hương ấy, so tơ phím này”. 

Mâu thuẫn trong lòng Kiều dần chuyển sang sự ngậm ngùi chấp nhận sự thật khắc nghiệt. Phần hai khắc họa rõ sự ý thức bi kịch ấy của Kiều. Càng nói càng lắm tâm sự, dường như màn đêm không dứt với hai chị em, muốn kéo dài để cho Kiều được nói cho thỏa nỗi lòng nàng, những tâm sự ngổn ngang cùng với sự lưu luyến dư âm mối tình đẹp tựa ngàn hoa. Kiều nghẹn ngào trong từng tiếng nấc:

“Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”.

Lời thơ thể hiện cái u uất, buồn trĩu lòng của Thúy Kiều. Cái hình ảnh: “người bạc mệnh”, “hồn mang nặng lời thề”, “nát thân bồ liễu” mà Kiều dung để ám chỉ chính bản thân mình cho thấy nỗi tuyệt vọng trong lòng nàng về tình yêu với chàng Kim.  Nỗi bứt rứt, dằn vặt trong lòng Kiều, Kiều như càng nhớ, càng thương Kim Trọng hơn bao giờ hết. Kiều vì đền ơn đáp nghĩa mà phải đoạn tình với chàng Kim. Chẳng lời nào có thể giải thích được. Nếu mai kia điều oan nghiệt xảy đến, Kiều mong Vân tẩy oan cho chị, để hồn chị được an ổn nơi dạ đài.

Những kỉ vật tình yêu hạnh phúc trong quá khứ trở thành nỗi đau khắc sâu vào tâm trạng thực tại của mình. Kiều nhận ra tương lai thật mịt mù, mơ hồ, nàng tưởng tượng ra cái chết trong tương lai, linh hồn cũng không siêu thoát được vì vẫn mang nặng lời thề với Kim Trọng: “Rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Kiều nghĩ đến viễn cảnh tang thương khi mất đi tình yêu, bởi với nàng, mất đi sự tự do là mất đi lí tưởng, mất đi tình yêu chính là mất đi tri kỉ. Say đắm trong tình yêu, Kiều đã cột chặt sinh mệnh của mình cùng mối tình tươi đẹp đó. Trong khoảnh khắc ấy, chúng ta có thể cảm nhận được tận sâu nỗi đau trong trái tim của nàng. Tuy nhận ra bi kịch, tuyệt vọng và đau đớn, nhưng Kiều vẫn khao khát được trọn vẹn trong tình yêu ấy.

Ở đây, có một sự mâu thuẫn với lời trước:

“Chị dù thịt nát xương mòn.
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.

Vậy mà ngay sau đó, Kiều đã tự họa cho mình những thảm cảnh trong tương lai… Chính bở diễn biến tâm lí của nàng đã dẫn đến sự tưởng như mâu thuẫn mà lại rất hợp tình ấy. Vẫn biết là báo hiếu cha mẹ nhưng làm sao có thể bắt một cô gái đương độ xuân xanh chặt đứt những mầm yêu đương mà không hề oán thán, than trách được? Kiều cũng đâu đổ lỗi tại ai đâu? Nàng tự thương cho cái mệnh bạc của mình đấy chứ!

Càng đi sâu vào dòng độc thoại nội tâm, nàng Kiều càng chìm sâu vào bi kịch, nàng không còn tỉnh táo nữa mà tâm sự với Kim Trọng trong nỗi tuyệt vọng:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại. Nàng ý thức rõ về cái hiện hữu của mình: “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Hình ảnh gợi tả số phận đầy đau khổ, dở dang, bạc bẽo, lênh đênh trôi nổi. Nghệ thuật đối lập giữa quá khứ với hiện tại càng khắc sâu nỗi đau của Kiều trong hiện tại.

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân/  Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi! nghe thê thiết, não nề. Đó là cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt (khác với cái lạy nhờ cậy lúc đầu). Nàng tự nhận mình là người phụ bạc, day dứt, mặc cảm về việc mình làm. Hai lần gọi tên Kim Trọng trong tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng. Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là lòng vị tha, đức hy sinh cao quý.

Hai câu cuối vỡ òa thảng thốt, Kiều đã không kìm nén được lòng mình mà thốt lên lời than vãn bi ai. Nàng gọi Kim Trọng là “Kim Lang”, cách gọi thân mật như vợ chồng. Từ cảm thán: “Ôi”, “hỡi”, “thôi thôi” vang lên như tiếng kêu đầy tuyệt vọng, tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo bất công chà đạp số phận con người.

Với con mắt tinh đời, Nguyễn Du đã phát hiện thấy trong truyện của Thanh Tâm Tải Nhân là một tình tiết rất cảm động và bằng nghệ thuật tuyệt vời, ông đã dựng lại đoạn “Trao duyên” hết sức sâu sắc và độc đáo. Tác giả đã đối lập hai tính cách của hai chị em một cách tài tình: con người của đời thường và con người của phi thường. Trong sự kiện “sóng gió bất kì” này, Thúy Vân vô tư, hồn nhiên, còn Thúy Kiều thì lại càng đau đớn hơn.

Nguyễn Du đã dụng công miêu tả tâm lý, sự vận động nội tâm nhân vật, cũng có thể nói Nguyễn Du đã đạt đến phép biện chứng của tâm hồn. Chỉ qua đoạn “trao duyên”, chúng ta cũng cảm nhận được Thúy Kiều là một cô gái giàu tình cảm, giàu đức hi sinh, có ý thức về tình yêu và cuộc sống. Một nhân cách như vậy mà vừa chớm bước vào đời như một bông hoa mới nở đã bị sóng gió dập vùi tan tác. Nói như Mộng Liên Đường Chủ nhân là khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu ngọn bút của Nguyễn Du, như có nước mắt của thi nhân thấm qua trang giấy. Hơn hai trăm năm rồi, những giọt nước mắt nhân tình ấy vẫn chưa ráo?

  • Kết bài:

Với thể thơ lúc bát giàu nhạc tính, hình thức độc thoại và kết hợp sử dụng giữa ngôn ngữ trang trọng với lối nói dân giản dị, các biện pháp ẩn dụ, điệp từ, vận dụng nhuần nhuyễn các thành ngữ, đoạn trích Trao duyên thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh của Thúy Kiều khi phải dứt lòng trao lại cho Thúy Vân mối tình đầu tiên; nhân cách cao đẹp của Kiều khi hi sinh hạnh phúc cá nhân để đổi lấy hạnh phúc và sự bình yên cho gia đình. Đối với nàng, tình và hiếu luôn thống nhất chặt chẽ. Tất cả đã được thể hiện thông qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế của đại thi hào Nguyễn Du.

Xem thêm:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang