cam-nhan-hinh-anh-nhan-vat-nguoi-me-trong-vo-nhat-cua-kim-lan

Cảm nhận hình ảnh người mẹ bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

Hình ảnh người mẹ bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt”

  • Mở bài:

Thành công của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân trước hết là khắc họa đậm nét các nhân vật điển hình: Tràng, Bà cụ Tứ, người “vợ nhặt”. Tác phẩm là bài ca thấm đẫm tình người, trong hoàn cảnh khốn khổ nhất, con người vẫn cưu mang nhau, dìu dắt nhau đi tới. không phải nhân vạt Tràng hay người “vợ nhặt”, chính hình ảnh người mẹ bà cụ Tứ mới là người đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng nhất về tấm lòng của người mẹ, về tình người, tình đời trong cuộc đời này.

  • Thân bài:

Kim Lân là nhà văn xuất thân từ tầng lớp bình dân. Ôm mộng trở thành họa sĩ nhưng vì nhà nghèo không có tiền ăn học nên ông đã đến với văn chương như một duyên nợ. Chính cuộc sống nghèo khổ đã giúp Kim Lân có cái nhìn rưng rưng, thấu cảm với những kiếp nhân sinh nhọc nhằn. Ông đã xây dựng thành công nhân vật người mẹ bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ trên bối cảnh của nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Khó có thể hình dung truyện ngắn Vợ nhặt sẽ thế nào nếu thiếu đi nhân vật người mẹ này.

Nhân vật bà cụ Tứ xuất hiện ở nửa sau của truyện. Dưới ngòi bút của nhà văn, người mẹ ấy mang lấy một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ. Đói nghèo làm hủy hoại ngoại hình, dáng vẻ. Kim Lân đã dùng những chi tiết ấn tượng để miêu tả sự xuất hiện của nhân vật. Nhà văn để cho Tràng ngóng mẹ với trạng thái nôn nóng, sốt ruột. Người con trai bồn chồn đứng ngồi không yên mong mẹ về bởi anh đang lo lắng, sợ hãi vì tự ý dẫn người đàn bà về làm vợ – điều mà trước anh chưa nghĩ đến. Giống như Tràng, bạn đọc hẳn cũng hồi hộp, mong chờ sự xuất hiện của người mẹ. Kim Lân không tả nhiều, chỉ bằng mấy câu “Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm, tính toán gì trong miệng” cũng đủ để nhân vật nhanh chóng đi vào tâm trí của người đọc.

Từ láy “lọng khọng” gợi hình ảnh một bà lão già yếu, hẳn là còng lưng. Đồng thời, nó cũng đánh thức trong lòng người đọc bao xót thương. Người mẹ ấy đến già vẫn chưa hết lo toan, chưa có lúc nào được thanh thản qua dáng vẻ “vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán”. Cuộc sống mưu sinh vất vả hiện lên qua dáng đi, đậm nét trên khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà. Suốt cả đời cực khổ kiếm miếng ăn, bà cụ Tứ chưa lúc nào thoát khỏi nỗi lo về đói nghèo. Do vậy, trước tình cảnh con trai “nhặt” được vợ vào lúc đói, người mẹ ấy lại một lần nữa chua xót nghĩ đến đời mình “Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình” .

Bà cụ Tứ là người mẹ giàu đức hi sinh, vị tha và hết sức bao dung. Qua tác phẩm Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã để lại trong lòng bạn đọc một ấn tượng sâu đậm bằng một tình huống éo le, cảm động: Tràng “nhặt” được vợ vào nạn đói khủng khiếp. Cái tài của nhà văn chính là trong tình huống ấy phẩm giá của con người được bộc lộ rõ nét nhất. Nhân vật người mẹ bà cụ Tứ trong tác phẩm cho thấy điều đó. Trước việc con trai dẫn về nhà một người đàn bà đồng nghĩa với việc thêm một miệng ăn trong cảnh “tối sầm vì đói khát”, người mẹ già ấy đã chấp nhận người đàn bà đói, bỏ qua những việc tối cần thiết vào lúc dựng vợ gả chồng cho con. Bà có trái tim nhân hậu khi vượt qua nỗi ám ảnh của cái đói để cưu mang, đùm bọc, xót thương người “vợ nhặt” với suy nghĩ “ Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến con mình” .

Người mẹ chồng ấy nhìn con dâu với ánh mắt xót xa và ái ngại. Bằng tình thương của mình, bà đã xua đi cái cảm giác mặc cảm của người con dâu qua câu nói: “Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng” . Mừng lòng chứ không phải bằng lòng, bà Tứ nhân hậu là ở chữ ấy, Kim Lân sâu sắc cũng là chữ đấy.

Người mẹ nghèo khổ trong tác phẩm đã không vì cái đói, cái cực của kiếp người tha hương cầu thực mà chai sạn tâm hồn, dửng dưng, vô cảm với tình cảnh khốn cùng của người khác. Bà nói với người con dâu mới với giọng “thân mật”, chân tình biết bao khi mời người đàn khốn khổ theo không con trai bà “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân” . Đọc đến đây người đọc hẳn thấy mình rưng rưng xúc động cũng như cảm phục tấm lòng nhân ái của người mẹ trong truyện. Đồng thời, ta cảm nhận được tình người thật ấm áp bởi trong cái đói thê thảm, những người nghèo vẫn giang rộng vòng tay, che chở, yêu thương nhau. Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện rõ ở nhân vật này là vì thế.

Bên cạnh tình yêu thương với người cùng cảnh ngộ, bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ có lòng yêu thương con vô bờ. Con trai có vợ vào lúc đói kém, người chết vì đói “như ngả rạ” đã tác động mạnh đến tâm lí của người mẹ. Bà cụ Tứ có những cảm xúc đan xen phức tạp, bà vui vì con có được vợ nhưng buồn, lo lắng “Biết rằng chúng có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.” Hơn nữa, nỗi tủi của người mẹ không lo được chuyện trăm năm cho con cứ đầy lên uất nghẹn: “Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con…”.  Người đọc nhận thấy sự thay đổi của người mẹ ấy vào sáng hôm sau. Không còn khuôn mặt bủng beo u ám mà thay vào đó là nét “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường” “rạng rỡ hẳn lên”, vượt lên cả cái mệt mỏi của dáng đi “lọng khọng” là hàng động hoạt bát “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”.

Người mẹ ấy luôn có mọt niềm tin vững chắc và biết truyền ngọn lửa niềm tin đến với các con. Trong bữa ăn đầu tiên của gia đình có nàng dâu mới, bà cụ nói chuyện ngăn nhà, nuôi gà với bao nhiêu là hi vọng. Người nói đến tương lai nhiều nhất trong truyện lại là bà mẹ gần đất xa trời. Phải chăng người mẹ muốn gieo vào lòng con trai, con dâu niềm tin vào sự đổi thay, vào sự sống bất diệt? Cũng trong buổi sáng hôm ấy, bà cụ nấu nồi chè khoán để đãi nàng dâu mới. Cái dáng lật đật, lễ mễ và hành động vừa khuấy khuấy vừa tươi cười đon đả mới đáng kính và xúc động làm sao.

Tình cảm của người mẹ được Kim Lân diễn tả đầy đủ và tinh tế qua những từ láy đó. Phải chăng bà vội vã để níu kéo niềm hạnh phúc mong manh mà bà cảm nhận đang mất đi trước thực tại đói khổ? Có thể thấy, mọi suy nghĩ, hành động của bà cụ Tứ đều xuất phát từ lòng thương con vô bờ. Người mẹ già ít nghĩ đến mình. Bà lo, thương, trĩu nặng, trăn trở vì con. Đức hi sinh của bà thật cao cả.

Nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ là người mẹ có trái tim nhân hậu mà còn là người sắc sảo, trải đời và hiểu đời. Bà ngạc nhiên, “phấp phỏng” trước thái độ vồn vã, trang trọng của người con trai và còn ngạc nhiên hơn khi trong nhà mình có một người đàn bà, lại chào bà “U đã về ạ”. Bao suy đoán làm cho bà mẹ cứ phân vân, băn khoăn, điều bà không bao giờ dám nghĩ tới – con trai bà có vợ, lại đến vào lúc bà không ngờ nhất. Do vậy, bà cụ Tứ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tuy nhiên, chỉ nghe mấy câu nói của người con trai “Nhà tôi mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau…

Chẳng qua nó cũng là cái số cả…” , bà mẹ ấy “cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu biết bao cơ sự”. Cái cúi đầu nín lặng của bà cụ Tứ hàm chứa tất cả những éo le mà bà đã đoán ra. Bà không hỏi con trai về điều Tràng đang tránh nói, không dám kể và người phụ nữ lạ kia đang bẽ bàng, tủi hổ. Bằng sự từng trải, người mẹ đã không tra xét mà bà nhìn, nghe và thấu thị những uẩn khúc trong câu chuyện “nhặt” vợ để con trai đỡ căng thẳng và người đàn bà theo con trai mình không bị tổn thương. Cách ứng xử của bà cụ Tứ vừa thông minh, vừa nhân ái vô cùng.

Kim Lân xây dựng nhân vật người mẹ trong tác phẩm của mình bằng một tình huống truyện độc đáo. Việc Tràng dẫn người vợ “nhặt” về nhà giữa cảnh người chết như ngả rạ vì đói đã tác động mạnh mẽ đến tâm lí của nhân vật người mẹ. Những cảm xúc vui, buồn, âu lo, thương xót… đan xen nhau trong nội tâm của người mẹ bà cụ Tứ. Nhờ có tình huống truyện mà tâm lí nhân vật được diễn tả thật tự nhiên, sống động. Vì thế, hình ảnh bà mẹ nhân hậu đọng lại trong trí nhớ và để lại ấn tượng khó phai trong lòng bạn đọc.

Để miêu tả tâm lí nhân vật, nhà văn còn dùng phương thức trần thuật theo ngôi thứ ba của người trần thuật giấu mình nhưng lời kể lại theo giọng điệu của nhân vật (lời nửa trực tiếp) “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? …”. Những suy nghĩ thầm kín của bà cụ Tứ đã cho thấy sự tinh tế của nhà văn trong khắc họa phẩm chất của nhân vật. Tìm hiểu nhân vật này khó có thể bỏ qua những lời độc thoại nội tâm cảm động như thế.

Mặt khác, trong sáng tác truyện ngắn, Kim Lân luôn coi trọng chi tiết. Miêu tả nhân vật người mẹ bà cụ Tứ, nhà văn đã tạo dựng được những chi tiết đắt giá như chi tiết về ngoại hình nhân vật, chi tiết nụ cười chua chát, giọt nước mắt hạnh phúc, chi tiết về nồi chè khoán. Chính những chi tiết ấy gây ấn tượng mạnh mẽ và để lại âm vang êm dịu, gợi dây sự cảm thương, trân trọng trong lòng người đọc.

Gánh nặng của kiếp mưu sinh là một chủ đề lớn trong các tác phẩm văn học của loài người nói chung và của văn học Việt Nam nói riêng. Trong nền cảnh chung của kiếp nhân sinh nhọc nhằn vì những lo toan kiếm sống thì nhân vật người mẹ của nhà văn Việt Nam hiện đại đã gợi cho người đọc bao cảm thương. Số phận của họ gộp cả vào đấy những lam lũ của kiếp người và của người phụ nữ. Tất cả được thể hiện rõ nét qua hình ảnh người mẹ bao dung bà cụ Tứ.

  • Kết bài:

Nhân vật người mẹ bà cụ Tứ mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam: giàu đức hi sinh, vị tha, tình mẫu tử cao đẹp, trí tuệ… Khi miêu tả, phát hiện và tôn vinh những vẻ đẹp đó của nhân vật người mẹ, nhà văn đã đem lại cho tác phẩm giá trị nhân đạo sâu sắc, gợi trong lòng độc giả những rung cảm thẩm mĩ có sức ám ảnh và lan tỏa. Tuy nhiên, văn chương không bao giờ chấp nhận lối mòn, bất cứ sự lặp lại nào (người khác hay chính mình) sẽ dẫn đến con đường khai tử cho nghệ thuật. Thấu hiểu điều đó, Kim Lân có những khám phá riêng ở hình tượng người mẹ. Bà cụ Tứ trong truyện ngắn của Kim Lân được đặt vào bối cảnh của nạn đói 1945. Từ đó nhà văn làm nổi bật lên chủ đề “Những người đói họ không nghĩ đến cái chết mà họ nghĩ đến cái sống”. Lòng nhân ái, tình mẫu tử cao đẹp, sức sống diệu kì và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống của các nhân vật chính là tình người ấm áp mà nhà văn muốn gửi gắm tới bạn đọc.


Tham khảo:

Cảm nhận vẻ đẹp hình ảnh nhân vật người mẹ bà cụ Tứ

  • Mở bài:

Bà cụ tứ là nhân vật xuất hiện ở khoảng giữa truyện, bà cụ Tứ vẫn đóng một vai trò đặc biệt quan trọng giúp Kim Lân thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc cho truyện ngắn của mình. Đây là nhân vật được nhà văn miêu tả khá chi tiết, sinh động từ ngoại hình, dáng vẻ đến những cử chỉ, hành động, từ những lời đối thoại đến những dòng độc thoại nội tâm.

  • Thân bài:

Bà cụ Tứ xuất hiện hiện trong tiếng ho húng hắng, trong dáng người lọng khọng, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán. Đó là những nét khác họa đầu tiên đầy ấn tượng về ngoại hình, dáng vẻ một người mẹ nghèo khổ, già nua, còm cõi, luôn trĩu nặng những lo toan về cuộc sống.

Ngay khi vừa xuất hiện, bà cụ Tứ đã phải đối mặt với tình huống oái oăm của con trai, cũng là của chính gia đình: anh con trai ngộc nghệch nhặt về một cô vợ rách tả tơi ngay trong những ngày đói khát thê thảm. Thân phận bất hạnh cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn, tính cách của bà cụ Tứ đã thể hiện qua những trạng thái tâm lí, cảm xúc, những cử chỉ, lời nói và hành động được nhà văn tả chân thực và tinh tế.

Khi thấy Tràng ra tận ngõ đón mẹ, lại thấy anh ta reo lên như một đứa trẻ, thái độ vồn vã, trang trọng khác thường của con trai đã khiến bà cụ Tứ phấp phỏng. Có lẽ, tấm lòng người mẹ của bà cụ Tứ đã linh cảm thấy có một cái gì đó quan trọng và bất thường đang chờ đợi. Nhìn thấy có một người đàn bà lạ đứng ngay đầu giường thằng con mình….lại chào mình là u…., vẻ khép nép lạ lùng của thị khiến bà ngạc nhiên tột cùng. Sự ngạc nhiên được thể hiện qua những câu hỏi dồn dập trong dòng độc thoại nội tâm, qua bước chân lập cập, run rẩy, qua việc bà đứng sững lại, rồi thậm chí như không tin nổi vào mắt mình, bà thấy mắt mình nhoèn ra thì phải… Chính sự ngạc nhiên tột cùng của bà cụ Tứ càng cho thấy cái nhìn tinh tường và trái tim nhạy cảm của người mẹ lập tức đã nhận ra có một điều gì đó thiêng liêng, lớn lao đang đến nỗi xót xa cho thân phận con người khi chỉ vì nạn đói và cảnh ngộ gia đình mà người mẹ tội nghiệp không thể tin được những điều bà đang phỏng đoán.

Sau khi nghe lời giới thiệu của con trai: Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi…, bà lão cúi đầu nín lặng… bà đã hiểu ra bao nhiêu là cơ sự. Có biết bao nhiêu thấu hiểu, bao nhiêu nỗi niềm trong cái cúi đầu nín lặng, trong sự chấp nhận ngậm ngùi của bà. Người mẹ từng trải đã hiểu tất cả những uẩn khúc, những éo le trong việc nhặt vợ của con, hình dung được cảnh ngộ của người vợ nhặt, đó là những cơ sự bà đã đoán ra mà không nỡ hỏi, những điều con bà đang nghĩ tới mà không nỡ nói, những điều đang làm người đàn bà xa lạ, đói rách kia sợ hãi, tủi hổ, bẽ bàng. Trong hai chữ cơ sự ấy là tất cả những oái oăm, bi hài của cảnh ngộ, những cay đắng, trớ trêu của duyên kiếp – sự nín lặng của bà cụ Tứ không chỉ cho thấy sự từng trải mà con là biểu hiện rõ nhất của trái tim nhân hậu.

Khác với anh con trai vô tâm, sự kiện Tràng nhặt vợ khiến bà cụ Tứ chìm đắm trong những nồi niềm, vừa ai oán vừa xót thương, vừa tủi phận. Bà mừng vì con có được vợ mà vẫn trăn trở về bổn phận làm mẹ, vần buồn tủi vì số kiếp đứa con mình thật bất hạnh khi chẳng được cha mẹ lo dựng vợ gả chồng cho đàng hoàng tử tế, mở mặt mở mày, phải đi nhặt vợ một cách éo le, chua xót; lại càng lo lắng vì cảnh con lấy vợ giữa những ngày đói quay đói quắt, biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không. Trong lòng bà ngổn ngang với dòng hồi tưởng về những năm tháng dài dằng dặc của quá khứ, với những cay đắng chồng chất trong cuộc đời của bà, của người chồng và đứa con gái đã mất; những buồn tủi về tình cảnh của mẹ con bà trong hiện tại, những lo lắng về tương lai…..; nhưng dù mừng hay tủi, buồn bã hay lo lắng, mọi ý nghĩ và nỗi niềm cho con trai, bà cũng đồng thời thông cảm, xót thương cho cảnh ngộ của người đàn bà đều chỉ xuất phát từ tấm lòng thương yêu vô bờ bến.

Từ chỗ xót xa cho con trai, bà cũng đồng thời thông cảm, xót thương cho cảnh ngộ của người đàn bà xa lạ nay đã trở thành con dâu của mình. Không một lời phản đối hay tra xét, cũng không hề rẻ rúng hay coi thường người đàn bà đói rách tả tơi theo không con trai mình, bà chỉ đăm đăm nhìn đứa con dâu đang bối rối vân vê tà áo đã rách bợt.. lòng đầy thương xót, ngay trong tâm tư, bà đã mặc nhiên công nhận nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Sự chấp nhận ấy cho thấy bà đã bỏ qua không chỉ lễ giáo thông thường mà cả gánh nặng sẽ chồng chất thêm của sự đói khát, nỗi ám ảnh ghê gớm của chết chóc để đùm bọc cưu mang một con người khốn khổ, nhất là để vun đắp cho hạnh phúc của con trai. Giống như Tràng, ý nghĩ của bà không chỉ là cảm thông, thấu hiểu mà còn gần như một sự hàm ơn với người vợ nhặt của Tràng: người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ….- ngôn ngữ độc thoại nội tâm như đã hàm chứa sắc thái đối thoại, vừa như để bênh vực cho con dâu, vừa như cố an ủi chính mình!

Những chi tiết miêu tả thái độ, cách nói năng, cư xử của bà cụ Tứ cũng làm đậm thêm vẻ đẹp trong tấm lòng nhân hậu của bà. Từ cách bà khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói, rồi lại hạ thấp giọng xuống thân mật, nhất là cách dùng hai chữ các con để gọi con và dâu một biểu hiện chắc chắn của sự chấp nhận với nàng dâu mới….; từ câu nói xót xa: chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá cho đến lời giục nàng dâu: con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân….- đó là những cách cư xử cho thấy sự tinh tế và nhân hậu trong lòng người mẹ nghèo, bà muốn bằng thái độ, giọng nói và cả cách xưng hô để làm vợi đi những căng thẳng, lo lắng của con cái, nhất là những tủi hổ bẽ bàng của người đàn bà gặp cảnh éo le đói khát mà phải theo không con trai mình. Tới ba lần, Kim Lân miêu tả dòng nước mắt của người mẹ bà cụ Tứ – những dòng nước mắt của buồn vui, thương xót, tủi cực, nước mắt của tình người nhân hậu, vị tha.

Trong ba nhân vật chính của truyện ngắn, người mẹ bà cụ Tứ cũng là người thể hiện rõ nhất niềm tin niềm hi vọng vào tương lai. Khốn khổ vì gánh nặng cuộc sống, không thể né được tiếng thở dài chua xót trước việc nhặt vợ của con, thậm chí, hơn một lần bà đã khóc vì tủi cực, lo lắng…, vậy mà bà vẫn đồng tình với việc làm có vẻ hoang phí, bốc đồng của con trai khi thấy Tràng mua dầu thắp đèn. Với câu nói: thắp lên một tí cho sáng sủa, bà đã không chỉ thể hiện sự trân trọng với hạnh phúc của con cái mà có lẽ còn bộc lộ một niềm tin dẫu là vu vơ, mơ hồ về sự sáng sủa hơn trong cuộc đời. Nét mặt nhẹ nhõm, tươi tỉnh… rạng rỡ và dáng vẻ xăm xắn của bà trong sáng ngày hôm sau khi cùng con dâu mới thu dọn, quét tước sân vườn, nhà cửa đã cho thấy ý thức vun đắp cuộc sống gia đình cùng niềm hi vọng cho cuộc đời của mấy mẹ con.

Bà cũng là người chủ động, nhiệt tình mang lại nhiều nhất niềm vui cho bữa ăn ngày đói. Mâm cơm lúc đầu, dù trông thật thảm hại khi giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo nhưng dù sao vẫn là mâm cơm của con người, và bữa ăn của mấy mẹ con vẫn thật vui vẻ, đầm ấm. Bà cụ Tứ chỉ nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau – từ cách nói dân đã quen thuộc về việc ngoảnh đi ngoảnh lại, chẳng mấy chốc có gà mà ăn ! đến cách bà dựa vào một triết lí dân gian đầy sức thuyết phục để gieo vào lòng các con niềm tin về sự đổi đời bởi theo lẽ vần xoay của trời đất thì Ai giàu ba họ, ai khó ba đời! Bà đã động viên các con bằng những dự tính mà ai cũng biết là viển vông, xa vời trong lúc đó, nhưng nghe cách nói của bà, vẫn thấy dũng cảm khi cái đói hiện ra thê thảm đau đớn ở nồi cháo cám.

Kim Lân đã miêu tả hình ảnh người mẹ bà cụ Tứ trong đoạn văn chua chát này bằng rất nhiều động từ: bà lật đật chạy xuống bếp lễ mễ bưng ra một cái nồi bốc hơi nghi ngút….đặt cái nồi xuống…. cầm cái muôi vừa khuấy khuấy vừa cười…rồi múc và đưa cho các con những bát cháo cám! Tất cả những việc này, bà làm bừng thái độ ân cần, đon đả, với nét mặt tươi cười, với những lời nói cố tỏ ra vui vẻ: chè khoán đấy, ngon đáo để…. Rồi đến khi không thể kéo dài cảnh đầm ấm ở nửa đầu bữa ăn, không thể tiếp tục giữ cho các con cảm giác vui vẻ hạnh phúc trong ngày đầu tiên của cuộc sống chồng vợ, cũng không thể trì hoãn giây phút cay đắng nhất của bữa ăn, không thể che giấu sự thật phũ phàng đã hiện lên trong bát cháo cám đắng chát, bà lại gắn gượng an ủi những đứa con đang tủi hổ.. cắm đầu ăn cho xong lần: cháo cám đấy…làng nhiều nhà còn không có cám mà ăn.

  • Kết bài:

Chính sự dũng cảm và tình yêu thương mênh mông của bà cụ Tứ đã khiến thứ thức ăn của loài vật thấm đẫm tình nghĩa con người, ngời sáng nhân cách con người, giúp các con bà vơi đi phần nào nỗi tủi hờn, chua xót khi thấu hiểu tình yêu thương, sự gắng gượng đầy bản lĩnh của mẹ, giúp họ có sức mạnh đối mặt với khốn khổ, vượt lên trên cái đói, cái thảm đạm để mà vui, để mà hi vọng.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang