cam-nhan-nhan-vat-nguoi-lai-do-trong-nguoi-lai-do-song-da-cua-nguyen-tuan

Cảm nhận nhân vật người lái đò trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Cảm nhận nhân vật người lái đò trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Hướng dẫn làm bài:

I. Mở bài:

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này, Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình.

II. Thân bài

1. Lai lịch và ngoại hình người lái đò sông Đà.

a. Lai lịch:

Ông lái đò sinh ra và lớn lên bên bờ sông Đà, ngay ngã ba sông Đà nên con sông là máu thịt của quê hương đã ngấm vào trái tim, khối óc nên ông lái gắn bó, yêu thương và thấu hiểu tường tận, cặn kẽ dòng sông.

b. Ngoại hình:

Khi Nguyễn Tuân có dịp kiến diện với người lái đò thì cũng là lúc người lái đò đã 70 tuổi, cái tuổi của buổi xế chiều. Ông làm nghề lái đò dọc sông Đà mười năm liền và đã nghỉ đôi chục năm. Ấy thế mà ông có ngoại hình thật đặc biệt «ông có thân hình quắc thước sánh như chất sừng, chất mun trông trẻ tráng quá ». Những nét ngoại hình ấy vì đâu mà có, phải chăng mười năm trong nghề, dấu ấn của công việc đã in đậm trên ngoại hình ông lão: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Bả vai của ông có vết củ nâu tròn, dấu tích tì sào của nghề lái đò mười năm liền trên sông nước, vượt qua bao ghềnh thác mà NT đã ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng.

Chỉ bằng vài nét khắc họa tài hoa mà NT đã chạm khắc vào tiềm thức của người đọc một hình ảnh nhân vật ông lái đò gần gũi với với môi trường lao động trên sông nước, sinh ra trên sông nước và để sống với sông nước. Một con người suốt một đời chiến đấu với thác, đá, sóng, nước sông Đà để tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó.

2. Vẻ đẹp tâm hồn người lái đò qua cuộc chiến với sông Đà.

a. Sự từng trải và am hiểu dòng sông:

Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng trải, thành thạo trong nghề. Nhưng như vậy cũng vẫn là chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết: người lái đò còn là một linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần…Cứ đọc trong thiên tùy bút này sự hung bạo của con sông Đà với thác, nước, sóng, đá mà để lái đò dọc sông Đà là một thử thách lớn trong nghiệp đời của ông.

Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mươi ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Không phải bỗng dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà.

b. Cuộc chiến đấu giữa ông lái đò và con sông Đà :

Ông lái đò đã từng ngược xuôi trên ghềnh thác sông Đà nhiều năm trong cuộc đời nên ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, và thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước, để rồi từ đó mưu trí, dũng cảm vượt qua và chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã để tồn tại, lao động và sáng tạo. Ông lái đò hiện lên khác nào vị thần Thủy Tinh trong thần thoại VN, nhưng có điều ông không có phép tiên mà chỉ đơn thuần là con người lao động bình dị, đời thường tiêu biểu cho phẩm chất của người lao động mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới ở miền Bắc.

Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào trong hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.

Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa của người lái đò được thể hiện rõ nét nhất trong cuộc đối đầu với đám đá đang bày binh bố trận trên sông. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Với những từ ngữ : mai phục, vồ lấy thuyền khiến cho lũ đá nơi ải nước như những kẻ thù nham hiểm và hung ác. Chúng có thể bất thình lình tấn công con người bát cứ khi nào và tai họa sẽ ập đến mà không báo trước. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Nguyễn đã miêu tả lũ đá ở đây mỗi hòn mang một vẻ mặt khác nhau: hòn thì ngỗ ngược, hòn méo mó, hòn mặt xanh lè, hòn hất hàm như thách thức… mỗi hòn mỗi dáng vẻ, nhưng nhìn những bộ mặt ấy thì không có chút nào thiện cảm bởi vẻ lạnh lùng, hung ác và giữ tợn.

Người đọc như đang chứng kiến thạch trận đá trên sông Đà như bày ra một trận địa chiến đấu mà mỗi vị trí và nhiệm vụ được cân nhắc và tính toán kĩ lưỡng. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Có bọn đá tiền vệ, hậu vệ, đá cũng biết mai phục, biết đánh trận. Tất cả gợi lên sự hung tợn và dữ dội, quyết liệt của con sông Đà hung bạo này. Hàng tiền vệ : Có hai hòn canh cửa thoạt nhìn tưởng chúng như sơ hở nhưng thực chất đang đóng vai trò dụ cái thuyền tiến sâu vào bên trong. Khi con thuyền đã bị dụ vào trong thì nước sóng luồng mới đánh khúyp quật vu hồi lại. Nhưng con thuyền của ông đò đã dễ dàng vượt qua nên tuyến thứ ba là các boong – ke chìm và pháo đài đá nổi là phải đánh tan con thuyền. Cùng với thạch trận đá là sự tiếp ứng, phối hợp của cả sóng nước biết tung ra bao đòn đánh hiểm độc : khúyp quật vu hồi, đưa ra những đòn độc : đá trái, thúc gối, đội thuyền, túm thắt lưng, bóp chặt hạ bộ người lái đò…rồi liên tiếp các đòn trùng điệp : đánh đòn tỉa, đòn âm, hồi lùng…

NT đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh để diễn tả hết sự hung hăng, dữ tợn và hiểm nguy của con sông Đà. Nhưng càng hung dữ bao nhiêu thì lại càng tôn lên vẻ đẹp của ông lái đò bấy nhiêu vì con sông coi như một hình ảnh làm nền cho người lái đò hiện lên anh dũng, kiên cường, đầy hiên ngang, kiêu hãnh, hào hoa tìm sự sống trên dòng sông chết. Hay chúng ta gọi là nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng, lấy bóng mà lộ được hình.

Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước thì hò la vang dậy như muốn bẻ gãy cán chèo, vũ khí duy nhất có trên tay ông lái đò. Sóng nước chiến đấu như một kẻ liều mạng, không do dự mà xông thẳng vào người lái đò tiến sát nách mà đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lái đò vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Đặc biệt trên con thuyền có đến sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn mà tỉnh táo của người cầm lái. “Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. Trong trận đánh người lái đò đã hiện lên thật gan dạ, dũng cảm và đầy sức dẻo dai và một trí tuệ của người chỉ huy con thuyền sáng suốt.

Không một phút giây nghỉ tay, nghỉ mắt, người lái đò phải tiếp tục “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Biết ở vòng vây thứ hai con sông đã bố trí tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. Với vòng vây thứ hai không phải chiến đấu với đá, sóng như cửa thứ nhất mà là đương đầu với dòng thác sông Đà. Bằng nghệ thuật liên tưởng độc đáo Nguyễn như thấy ông lái đò không phải chèo thuyền vượt thác mà là cưỡi lên thác nước sông Đà. Hơn nữa bằng nghệ thuật miêu tả đòn bẩy tác giả đã ví thác sông Đà như một con hổ hung bạo đã vào cuộc chiến sinh tử với người lái đò. Nên ông lái đã cưỡi lên thác thì phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ. Nhằm đúng con sóng mà lướt thì cũng như nắm được cái bờm của con hổ để có chỗ bám, chỗ ghì tay. Rồi ông đò ghì cương lái của con thuyền, chắc đôi bàn tay để bám chắc lấy luồng nước mà lái miết một đường vào cửa Sinh. Nhưng con sông thật nham hiểm bởi nó không để chút sơ hở cho con thuyền có lối thoát. Luồng nước chứa cửa sinh cũng là chỗ lũ đá đang mai phục. Không chỉ có thế, một bọn thủy quân đang chờ sẵn chỗ ải nước chỉ chờ con thuyền đến là xô ra để níu con thuyền vào cửa tử. Nhưng ông đò đã nhớ mặt từng đứa một, đứa thì ông tránh để bơi chèo nhanh, đứa thì ông đè sấn lên, chặt đôi ra để lấy đường tiến. Và cứ như vậy con thuyền đã bỏ qua hết những cửa tử, và chỉ nghe bên tai tiếng reo hò của sóng nước luồng sinh. Trong trận chiến thứ hai phẩm chất nổi bật của ông lái đò lại anh hùng, linh hoạt và chủ động đối phó với thác nước sông Đà.

Nếu trong hai trận chiến trên chúng ta có thể đã đủ để ngưỡng mộ người lái đò, nhưng với Nguyễn, tìm đến con người thì con người ấy phải được miêu tả đến tài hoa tột bậc, phải trở thành nghệ sĩ. Và Nguyễn đã phải tiếp tục miêu tả người lái đò trong cuộc chiến thứ ba với con sông Đà. Và cũng đến vòng vây thứ ba với nghệ thuật miêu tả sắc nét vô cùng thì ông lái hiện lên như một tay lái nở hoa, đạt đến mức độ nghệ sĩ trong nghề lái đò của mình. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Khung cảnh giao tranh dù rất quyết liệt, một mất một còn nhưng Nguyễn đã miêu tả như một cuộc chiến của giới thần tiên. Màn hơi nước mờ trắng hư ảo, con thuyền không bơi trên sóng nước sông Đà mà nó như đang bay trên dòng sông hư ảo ấy. Con thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước. Còn người lái đò như một tiên ông với phép lạ, chỉ vẩy tay chèo mà con thuyền vút vút xuyên đi như có một mãnh lực siêu hình. Phải chăng đó là tuyệt tài của một tay lái nở hoa. Thế là kết thúc.

Trong cuộc chiến với con sông Đà, người lái đò hiện lên như một nghệ sĩ tài hoa. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.

Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc, thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, người lái đò chỉ có Nguyễn Tuân. Và, lời ghi chú của nhà văn thật đáng để suy ngẫm!

III. Kết bài

Nổi bật trong trang văn của Nguyễn là nhân vật luôn được nhà văn miêu tả ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu trước CMT8 -1945, Nguyễn Tuân chỉ tập trung vào lớp nhà nho quá vãng thì nay sau CM, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay trong cuộc sống hàng ngày của người dân lao động. Cuộc đời của người lái đò vô danh, không tên tuổi, nơi có những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, một pho nghệ thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một” của con người, thì cũng chính thiên nhiên, qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người vào lao động.


Tham khảo:

  • Mở bài:

Người lái đò sông Đà trích từ tập tùy bút Sông Đà, in lần đầu năm 1960.  Với 15 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo, Tùy bút Sông Đà xứng đáng là một bản trường ca ca ngợi quê hương đất nước. Trong đó, Người lái đò Sông Đà là một trong những áng văn tiêu biểu nhất của tập Sông Đà, thể hiện những nét đặc sắc trong nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân. Ông lái đò trên dòng sông Đà là nhân vật chính, được nhà văn khắc họa đậm nét mang đậm chất sử thi đồng thời là nhan vật chuyển tải ý đồ của nhà văn là phát hiện và ca ngợi chất vàng mười – “thứ vàng đã được thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng.

  • Thân bài:

Ông vốn là người lao động rất bình thường, làm nghề chở đò tải hàng trên sông Đà – một công việc rất nguy hiểm, vất vả, một môi trường sống khắc nghiệt. Hằng ngày phải đối mặt với thiên nhiên hùng bạo, đấu tranh với nó để giành sự sống từ tay nó…

Chở đò trên sông Đà theo Nguyễn Tuân là một cuộc chiến đấu… Nguyễn Tuân đã khâm phục mà ghi lại một cuộc chiến đấu của ông đò trên chiến trường sông Đà để qua đó ngợi ca vẻ đẹp của người lao động trong cuộc sống chinh phục thiên nhiên.

Ông lái đò là người tinh thạo trong nghề nghiệp. Ông lão nắm vững qui luật khắc nghiệt của dòng thác sông Đà “nắm chắc quy luật của thần sông thần đá”. Ông thuộc lòng những đặc điểm địa hình của Sông Đà “nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả các luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, Sông Đà “như một thiên anh hùng ca mà ông đò thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.

Ông là người trí dũng tuyệt vời và tài hoa. Ông sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục “cửa tử”, “cửa sinh”, vượt qua trận thuỷ chiến với đá chìm, đá nổi, với những trùng vi thạch trận và phòng tuyến đầy nguy hiểm. Ông lái đò vượt qua bằng những hành động táo bạo và chuẩn xác. Ông hiện lên như một vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm:

Trùng vi thứ nhất, ông lái đò được Nguyễn Tuân khắc họa đúng là một người lao động, người chở đò lão luyện từng trải. Ở trùng vi này, thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm sát bờ trái và huy động hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền.

Ông lái đò tỏ ra từng trải và dạn dày kinh nghiệm, thuộc lòng từng ngách đá, luông nước, nắm vững trận pháp của đá và nước để tìm ra cửa sinh. Đây mới chỉ là trùng vi đầu tiên, không gì có thể làm khó ông nhưng không phải vì thế mà ông chủ quan, khinh thường.

Với cánh tay cheo chắc chắn, chân bám chặt vào mạn thuyền lấy thế, nước phủ lên mặt, thúc vào mạn sườn, luồng sóng hung tợn “liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền” nhằm làm ông phân tâm để mà nhấn chìm, phá nát con thuyền nhưng không thể làm ông nao lòng. Ông vẫn đứng sừng sững như bức tượng đồng đầy uy mãnh. Thậm chí chúng còn đánh đòn tỉa, đánh đòn âm… nhưng ông lái đò bình tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con thuyền “khỏi bị hất khỏi bờm sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Ngay cả lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh táo chỉ huy con thuyền trong chớp nhoáng lướt thuyền lướt đúng vào luồng sinh.

Trận chiến diễn ra ác liệt và cũng hết sức nhanh chóng. Con thuyền lao vào luồng nước rồi vụt qua lèn đá trôi tuột xuống bên dưới bình yên, mặc cho mặt nước hò reo khiêu khích.

Ở trùng vi thứ hai, ông lái đò giống như một vị tướng xả xung hữu đột, một người anh hùng trên mặt trận thủy chiến lắt lẻo hiểm nguy tướng dữ quân tợn. Ông đối đầu với kẻ thù bằng thái độ bình tĩnh, thông minh, nhanh nhẹn, dũng cảm, uy nghi,… Người lao động đã hiện lên trong tư thế một người anh hùng trí dũng trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên…

Vòng vây thứ 2 này, dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật, nhiều cửa tử hiện ra để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn, lệch cánh tay chèo nhằm làm khó ông lái. Nhưng ông đò đã “nắm chắc quy luật của thần sông thần đá” nên lập tức cũng thay đổi chiến thuật theo, nhận ra cạm bẫy của bọn thuỷ quân nơi cửa ải nước này. Lần này, ông không né tránh mà “đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác”, “cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. “Nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo vào cửa đá ấy”.

Ông lái đò tả xung, hữu đột như một chiến tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc có thừa lòng quả cảm đã đưa được con thuyền vượt qua tập đoàn cửa tử khiến cho những bộ mặt đá hung hăng dữ tợn phải xanh lè, thất vọng. Vị dũng tướng uy nghi đứng trên thuyền thách thức đoàn quân hung bạo đang gầm ghè, sôi sục. Ông cứ đưa tay lái, mạnh tay chống, bên trái, rồi bên phải, con thuyền chao đảo nhưng vẫn giữ được trận thế lúc khoan nhặt lúc lao nhanh cho kịp luông nước mở. Lòng sông âm u che giấu bí mặt nhưng đối với ông cứ rõ ràng trước mắt. Mỗi động tác đều hết sức chính xác đến cao độ. Cứ như ông chính là người làm chủ cuộc chiến này và đã nắm chắc phần thắng từ lúc mới bắt đầu vậy.

Trùng vi thứ ba, ông lái đò được Nguyễn Tuân khắc họa trong tư cách một nghệ sĩ tài hoa. Đến đây tác giả lại không miêu tả kĩ động tác chở đò, mà chỉ miêu tả hình ảnh con thuyền lướt nhanh như bay trên dòng sông…

Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung nghệ sĩ, ông lái đò tay lái linh hoạt, khéo léo, tài hoa như một nghệ sĩ trên sông nước: “ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”, “Vút, vút…thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”.

Dưới bàn tay chèo lái điêu luyện của ông con thuyền đã hoá thành con tuấn mã hiểu ý chủ- khi thì khéo léo né tránh luồng sóng dữ, khi thì phóng thẳng vào cửa đá có ba tầng cổng “cánh mở, cánh khép”. Con thuyền như bay trong không gian, ông đò luôn nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn; bình tĩnh và hùng dũng ngay cả lúc bị thương.

Sự thanh thoát lao như tên bay của con thuyền qua các cửa đá, chứng tỏ tài nghệ chở thạch trận ít cửa tử hơn nhưng bên phải bên trái đều là luồng chết cả, cửa sinh lại nằm giữa lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ. Nhưng ông đò không hề bất ngờ trước mưu mô hiểm độc của bọn chúng, tiếp tục chỉ huy con thuyền vượt qua trùng vây thứ 3. Ông lái đò thật là lão luyện, đạt đến trình độ tay lái ra hoa, điêu luyện. Từ ngữ dùng thật bất ngờ, sáng tạo, nhiều biện pháp tu từ, những từ ngữ tạo hình. Qua ba trùng vi thạch trận, Nguyễn Tuân đã hoàn thiện chân dung một người lao động trí dũng và tài hoa.

Vẻ đẹp khiêm nhường sau cuộc chiến: Ông lái đò vừa tài hoa, trí dũng vừa bình dị khiêm nhường. Đó chính là chất “vàng mười” trong tâm hồn con người Tây Bắc mà Nguyễn Tuân đã dày công kiếm tìm.

Quả như nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét: “chỉ người ưa suy xét, đọc nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”. Đây là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, cái thật. Đọc Người lái đò sông Đà ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do một nhà văn tài năng. Lúc nào, văn Nguyễn Tuân cũng đầy nghịch lí, nhưng đó là cái cái nghịch lí dễ chịu và êm ái vô cùng. Người đọc liên tục bị thúc ép, bị khiêu khích, bị đưa vào những tình huống gây cấn, hồi hộp để rồi cuối cùng, khi đã vượt qua tất cả, nhà văn lại vỗ vai đồng hành trong nụ cười hài lòng.

Với vốn từ ngữ phong phú, nhất là vốn từ quân sự thích hợp để diễn tả cuộc giao tranh, cuộc chiến đấu của con người với thiên nhiên. “Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bỏng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa” (Nguyễn Đăng Mạnh). Những trang viết, những câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng, khi gân guốc, khi mềm mại, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên như một đứa trẻ, khi triết lí cao siêu như kiểu dạy đời, khi chân tình, mộc mạc như đang thủ thỉ, thì thầm.

Xét về cấu trúc bề mặt, tùy bút của Nguyễn Tuân nói chung và Người lái đò Sông Đà nói riêng có sự phóng túng với nhiều liên tưởng tạt ngang, tạt dọc- những liên tưởng đa chiều. Trong bài tùy bút này, nhà văn đã xây dựng hai nhân vật : Sông Đà và người lái đò Sông Đà. Có lúc nhà văn nói đến dòng sông hung bạo, khi lại nói về ông lái đò vượt thác, lúc trở về miêu tả dòng sông trữ tình thơ mộng, khi trần thuật, khi miêu tả, lúc trữ tình để bộc lộ tài hoa của mình, để thấy được hết sự sinh động đa diện của các hình tượng.

Nhưng thực ra, tác phẩm có một mạch ngầm văn bản rất chặt chẽ, ẩn sâu trong lối diễn đạt của Nguyễn Tuân. Điều đó được bộc lộ rất rõ qua những câu thơ được nhà thơ mượn để làm lời đề từ cho tác phẩm. Nguyễn Tuân muốn ca ngợi Sông Đà như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa đã ban tặng cho con người. Và bài tùy bút này của ông cũng như một công trình nghệ thuật ngôn từ – một sáng tạo độc đáo tài hoa mà Nguyễn Tuân tặng lại cho đời.

  • Kết bài:

Nguyễn Quang Bích cũng đã từng ca ngợi dòng sông Đà ấy một cách kinh ngạc: “Chúng thủy giai đông tẩu. Đà giang độc Bắc lưu”. Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con sông Đà khác, không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và vô cùng phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như tác giả đã nói: vừa hung bạo vừa trữ tình. Trên nền cảnh kì vĩ ấy, ông lái đò, hiệp sĩ của núi rừng Trường Sơn đã chinh phục con quái vật ấy một cách tài tình. Quả thật, mượn cái nền thiên nhiên ác liệt, Nguyễn Tuân cũng chỉ muốn ca ngợi sức lao động của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, tìm lấy sự sống mà thôi.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang