cam-nhan-ve-khung-canh-le-hoi-trong-tiet-thanh-minh-qua-doan-trich-canh-ngay-xuan-12121-2

Cảm nhận khung cảnh lễ hội nhộn nhịp, tươi vui trong đoạn trích Cảnh ngày xuân (trích truyện Kiều – Nguyễn Du)

Cảm nhận khung cảnh lễ hội nhộn nhịp, tươi vui trong đoạn tích Cảnh ngày xuân (trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)

  • Mở bài:

Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du) thể hiện sâu sắc đỉnh cao bút pháp tả cảnh của thiên tài Nguyễn Du. Cái hay trong bút pháp tả cảnh của Nguyễn Du đó là ông không tả mà chỉ gợi. Nghệ thuật ấy được minh chứng rõ ràng trong khung cảnh lễ hội khi chị em Thúy Kiều rời gót du xuân.

  • Thân bài:

Sau bức tranh mùa xuân tươi thắm, Nguyễn Du hướng ngòi bút vào miêu tả khung cảnh lễ hội nô nức phố phường:

Thanh minh, trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.

Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay

Nguyễn Du đã rất tài tình khi tách hai từ lễ hội ra làm đôi để gợi tả hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: “Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Không khí lễ hội được gợi tả từ một hệ thống từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm:

Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay

Đoạn thơ sử dụng nhiều tính từ “nô nức”, “gần xa”, “ngổn ngang” làm rõ hơn tâm trạng người đi hội. Nhiều danh từ ghép (yến anh, tài tử, giai nhân, chị em, ngựa xe, áo quần) gợi tả sự đông vui tấp nập. Và nhiều động từ (sắm sửa, dập dìu) gợi được sự rộn ràng, đông vui của ngày hội xuân.

Thông qua buổi du xuân của chị em Thúy Kiều, tác giả khắc họa hình ảnh một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa. Cụm từ “nô nức yến anh” là một ẩn dụ gợi lên hình ảnh từng đoàn nam thanh, nữ tú nô nức đi chơi xuân như những đàn chim én, chim oanh bay ríu rít. Trong lễ hội mùa xuân náo nhiệt nổi bật những nam thanh, nữ tú, những “tài tử gia nhân” tay trong tay dạo chơi. Niềm vui lễ hội như bao trùm cả nhân gian. Những so sánh rất giản dị “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” gợi tả sự đông vui, tấp nập của phố phường.

“Lễ là tảo mộ” – lễ thăm viếng, sửa sang, quét tước phần mộ người thân; đốt vàng vó, sắc tiền để tưởng nhớ những người đã khuất. “Hội là đạp thanh” – vui chơi chốn đồng quê, đạp lên những thảm cỏ xanh, là một cuộc sống hiện tại và có thể tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau. “Lễ” là hồi ức và tưởng niệm quá khứ theo truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “hội” là khát khao và hoài vọng nhìn về phía trước của cuộc đời. Lễ và hội trong tiết Thanh minh là một sự giao hòa, độc đáo. Chứng tỏ nhà thơ rất yêu quý, trân trọng vẻ đẹp và giá trị truyền thống văn hóa dân tộc.

  • Kết bài:

Khép lại một bức tranh cảnh lễ hội nhộn nhịp, Nguyễn Du trả nó về với cái nhìn của tâm trạng. Mùa xuân rừng rực sức sống nhưng sao có phần buồn bã trong “thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay”. Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh kết thúc lại trong sắc thái có chút u buồn chứ không còn rộn rã như buổi ban mai. Có phải rằng, qua hình ảnh ấy, ông ngầm dự báo về những trắc trở, tai ương sẽ xảy với con người ra sau những cuộc vui như thế này chăng?


Bài tham khảo:

Phân tích khung cảnh lễ hội trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”.

  • Mở bài:

Bên cạnh nghệ thuật tả người, nghệ thật tả cảnh là một thành công nghệ thuật đặc biệt của “Truyện Kiều”. Bút pháp ước lệ tuy nghiêng về sự gợi tả, kích thích trí tưởng tượng của người đọc. Nghệ thuật ấy được tác giả Nguyễn Du vận dụng miêu tả bức tranh khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh hết sức tài tình:

“Thanh minh, trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay “.

  • Thân bài:

Đoạn thơ có sự chuyển tiếp nhịp nhàng, tự nhiên từ bức tranh thiên nhiên đến bức tranh lễ hội. Từ khung cảnh mùa xuân tươi mới, êm đềm ấy, nét bút của Nguyễn Du bắt đầu tập trung khắc họa những hoạt động của con người. Đầu tiên, nhà thơ giới thiệu mục đích và ý nghĩa của tiết hội Thanh minh:

“Thanh minh trong tiết tráng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”.

Tiết Thanh minh vào đầu tháng ba, khí trời mát mẻ, trong trẻo. Người người đi viếng, quét dọn, sửa sang và lễ bái, khấn nguyện trước phần mộ tổ tiên. Sau “lễ tảo mộ” là đến “hội đạp thanh“, một hình ảnh quen thuộc trong các cuộc chơi xuân đầy vui thú ở chốn làng quê. Cách sử dụng điệp từ “lễ là”, “hội là” gợi ấn tượng về sự diễn ra liên tiếp của các lễ hội dân gian, niềm vui tiếp nối niềm vui.

Không khí lễ hội rộn ràng, huyên náo bỗng hiện ra thật sinh động trong từng dòng thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu:

“Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tải tử giai nhân
Ngựa xư như nước áo quần như nêm”

Tài năng của Nguyễn Du được thể hiện qua cách sử dụng ngôn từ. Sự xuất hiện của hàng loạt các danh từ, động từ, tính từ như: gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, nô nức, sắm sửa, dập dìu,… đã gợi lên bầu không khí rộn ràng của lễ hội đồng thời làm rõ hơn tâm trạng của người đi trẩy hội. Hầu hết các câu thơ đều được ngắt nhịp 2/2 cũng góp phần gợi tả không khí nhộn nhịp, đông vui của lễ hội.

Cách nói ẩn dụ “nô nức yến anh” gợi hình ảnh từng đoàn người náo nức du xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Câu thơ “Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”, Nguyễn Du không chỉ nói lên một lời thông báo mà còn giúp người đọc cảm nhận được những trông mong, chờ đợi của chị em Kiều. Trong lễ hội mùa xuân, nhộn nhịp nhát là những nam thanh nữ tú, trai thanh gái lịch vai sánh vai, chận nối chân nhịp bước. Họ chính là linh hồn của ngày hội. Cặp tiểu đối “tài tử”/”giai nhân”, “ngựa xe như nước”/”áo quần như nêm” đã khắc họa rõ nét sự hăm hở của tuổi trẻ. Họ đến với hội xuân bằng tất cả niềm vui sống của tuổi xuân. Trong đám tài tử giai nhân ấy có ba chị em Thúy Kiều.

Có lẽ, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh lễ hội bằng đôi mắt và tâm trạng của hai cô gái “đến tuổi cập kê” trước cánh cửa cuộc đời rộng mở nên cái náo nức, dập diu từ đó mà ra. Toàn bộ dòng người đông vui, tưng bừng đó tấp nập ngựa xe như dòng nước cuốn, áo quần đẹp đẽ, thướt tha đống đúc “như nêm” trên các nẻo đường. Thật là một lễ hội tưng bừng, sang trọng và phong lưu.

Cái hay, cái khéo của Nguyễn Du còn được thể hiện ở chỗ chỉ bằng vài nét phác thảo, nhà thơ đã làm sống lại những nét đẹp văn hóa ngàn đời của người Phương Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ tảo mộ, hội đạp thanh không chỉ là biểu hiện đẹp của lòng biết ơn tổ tiên, của tình yêu con người trước cảnh sắc quê hương, đất nước mà còn gợi lên một vẻ đẹp của đời sống tâm linh với phong tục dân gian cổ truyền:

“Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”.

Người đã khuất và người đang sống, quá khứ và hiện tại như được kéo gần lại. Những người còn sống đang đốt giấy vàng gửi cho người đã khuất. Họ mong cho người đã khuất có được cuộc sống đủ đầy. Đây là một việc làm thể hiện niềm tin thánh thiện của con người vào những hành động tốt đẹp trong cuộc sống chứ không hoàn toàn là mê tín.
Cảnh ra về:

  • Kết bài:

Qua đoạn trích ta thấy được nghệ thuật miêu tả cảnh điêu luyện của Nguyễn Du. Nhà thơ đã kết hợp khéo léo giữa tả và kể, sử dụng từ ngữ giàu tính tạo hình để miêu tả cảnh ngày xuân. Qua đó làm hiện lên bức tranh xuân đẹp và đẹp trong trẻo, tinh khôi. Đặc biệt bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế đã khiến cho cảnh thấm màu tâm trạng. Miêu tả cảnh nhưng gợi được tâm trạng nhân vật chính là cái tài của thi hào Nguyễn Du.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang