hinh-tuong-nguoi-linh-tay-tien-trong-bai-tho-tay-tien-cua-quang-dung

Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.

I. Mở bài: Giới thiệu chung.

* Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm và hình tượng người lính Tây Tiến.

II. Thân bài:

1. Vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn :

+ Dù chiến đấu trong môi trường khắc nghiệt nhưng họ vẫn nhạy cảm trước những hình ảnh đẹp nên thơ, tinh tế của cảnh và người: một làn sương mờ ảo; một dáng hoa lau phất phơ; những đêm hội đuốc hoa với những xiêm áo rực rỡ, điệu bộ e ấp của những cô gái vùng cao.

+ Cuộc sống và chiến đấu của họ gian khổ, thường xuyên phải đối mặt với tử thần nhưng người lính vẫn lạc quan, yêu đời, gửi niềm tin vào cuộc sống, vào chiến thắng, vẫn mơ về những nét đẹp, thanh lịch, dịu dàng của những cô gái đất Hà thành: “Mắt trừng gửi mộng…dáng kiều thơm”

2. Vẻ đẹp hào hùng, bi tráng:

+ Hoàn cảnh xuất hiện của họ được xây dựng từ đời sống, môi trường chiến đấu rất phi thường: đó là bối cảnh thiên nhiên hoang sơ, kì vĩ, dữ dội, hiểm trở với đủ núi cao, vực thẳm, sông dài, mưa nguồn, thú dữ…

+ Trên cái nền thiên nhiên hoang vu hiểm trở, hùng vĩ đó, người lính Tây Tiến thật oai phong, lẫm liệt và phi thường.

3. Nghệ thuật:

– Sử dụng bút pháp lãng mạn, sử dụng ngôn ngữ thuần Việt xen lẫn Hán Việt tạo sắc thái trang trọng, hào hùng, âm hưởng ngợi ca người lính Tây Tiến vừa mang vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời chống Pháp vừa mang vẻ đẹp bi tráng, kiêu hùng của những tráng sĩ thuở xưa.

– Quang Dũng là một chàng trai trẻ đất Hà Thành, có phong cách thơ phóng khoáng, lãng mạn, hào hoa, đa tình.

III. Kết bài:

Khắc họa chân dung chiến sĩ Tây Tiến đậm chất bi tráng. Qua hình tượng người lính, Quang Dũng khẳng định, ngợi ca tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng của chiến sĩ Tây Tiến, chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Đồng thời qua đó thể hiện nét bút tài năng và tình cảm yêu mến, gắn bó, tự hào về trung đoàn Tây Tiến của Quang Dũng.


Tham khảo:

Hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng

  • Mở bài:

Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian. Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên. Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng.

  • Thân bài :

– Vẻ đẹp lãng mạn thể hiện trên những phương diện: cái tôi trữ tình tràn đầy tình cảm, cảm xúc, phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng những yếu tố cường điệu, thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng. Vẻ đẹp lãng mạn thể hiện ở cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng hi sinh cho lí tưởng chung của dân tộc, thể hiện ở vẻ đẹp tâm hồn hào hoa, thơ mộng.

– Cái bi là sự gian khổ, hi sinh. Cái tráng là sự hào hùng, tráng lệ. Chất bi tráng của một hình tượng nghệ thuật là vẻ đẹp vừa có tính chất buồn thảm làm não lòng người vừa có tính chất hùng tráng, mạnh mẽ gây ấn tượng. Chất bi tráng hoà quyện vào nhau, sự gian khổ, hi sinh được thể hiện qua màu sắc hào hùng, tráng lệ, bi mà không luỵ.

1. Vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn của người lính Tây Tiến:

Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng triệt để thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.

Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và kì lạ :

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác thường. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Quang Dũng không hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện quan ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ …

Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Như vậy, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà con thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.

2. Chất hào hùng, bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến:

Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mỉ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã :

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng.

Hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở lại.

3. Nghệ thuật thể hiện:

Thể thơ 7 tiếng chắc khoẻ mang giọng điệu hào hùng như một khúc quân hành. Kết hợp hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn. Những vần thơ giàu chất nhạc, chất hoạ, nghệ thuật chạm khắc…

Hình ảnh thơ vừa gân guốc, khoẻ khoắn, vừa mềm mại, trữ tình. Quang Dũng đã phát huy sức mạnh của thủ pháp tương phản – đối lập, một trong những yếu tố nghệ thuật mang dấu ấn thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn.

Ngôn ngữ vừa giản dị, trẻ trung vừa có yếu tố cổ điển trang trọng ở những từ Hán Việt. Cách nói giảm, nói tránh kết hợp với bút pháp phóng đại, lí tưởng hoá…

  • Kết bài:

Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của ngòi bút Quang Dũng. Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, miêu tả được vẻ đẹp tinh thần của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi không trở lại. Hình tượng này thể hiện rõ nét những đặc sắc trong phong cách thơ Quang Dũng. Với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã góp vào bảo tàng hình ảnh những người lính bức chân dung người lính kháng chiến chống Pháp rất độc đáo và thi vị.


Tham khảo:

Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa và bi tráng

  • Mở bài:

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Tây Tiến là nét son đẹp nhất, tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ người nghệ sĩ ấy. Bài thơ là bức tranh vẽ lên từ những gam màu nỗi nhớ, là bức tranh hiện thực dữ dội, bi tráng mà không mất đi vẻ lãng mạn nên thơ về thiên nhiên Tây Bắc, là bức chân dung về người lính, đời lính trong những ngày chống Pháp đầu tiên. Tây Tiến còn là lời hẹn ước đi lên giành độc lập của những chàng trai trẻ quyết ra đi vì đồng bào, xứ sở. Nếu ở những khổ thơ đầu tiên, bức tranh về thiên nhiên, nỗi nhớ được tái hện rõ nét, sinh động thì ở những lời thơ sau đây, bức tranh chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa hiện ra đẹp vô cùng.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

  • Thân bài:

Trước hết, nhắc về Tây Tiến là nói tới đơn vị bộ đội được thành lập vào năm 1947 – những tháng ngày đầu chống Pháp của dân tộc ta – hoạt động dọc biên giới Việt – Lào, nơi núi rừng Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ. Tham gia vào đoàn quân ấy phần đông là sinh viên, học sinh đến từ thủ đô Hà Nội, và là cả Quang Dũng – người đại đội trưởng sát cánh, gắn bó cùng đoàn quân. Chính vì gắn bó, chính vì ngày đêm cùng bên nhau, cùng sinh hoạt, cùng chiến đấu mà Quang Dũng rất thấu hiểu về con người và cuộc đời người lính nơi ấy. Để rồi khi phải rời đến đơn vị khác, ông rất nhớ, rất nhớ. Nhớ về một “đoàn binh không mọc tóc” lừng lẫy một thời.

Trong nỗi nhớ của mình, bức chân dung người lính được Quang Dũng họa lên với nét bút tả thực trần trụi, gân guốc:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Hai tiếng Tây Tiến vang lên mở đầu ý thơ như một lời nhắc nhớ đích đến của nỗi nhớ trong lòng là Tây Tiến, đồng thời cũng ấn chứa niềm tự hào, kiêu hãnh tha thiết. Cụm từ không mọc tóc đã nói lên sự thật bi thương về một thời kì kháng chiến đầy gian truân, vất vả. Những người lính của ta phải sống và chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn đủ bề. Họ trải qua cái đói, cái rét lạnh cắt thịt cắt da của nơi rừng thiêng nước độc hoang sơ, khắc nghiệt. Họ phải chịu đựng cả sự đau đớn về cả thể xác và tinh thần từ những con sốt rét rừng, bệnh tật. Cụm từ quân xanh màu lá cũng nhấn mạnh sự trần trụi của hiện thực ấy khi nhà thơ nói về màu xanh áo lính hay chính là nói về cái xanh xao vàng vọt của nước da các anh. Trong hoàn cảnh khó khăn, vất vả cơm chẳng ăn no, thuốc chia nhau từng chút, những cơn sốt rét nghiệt ngã này đã cướp đi bao sinh mệnh của những người lính nơi đây. Đó là một sự thật trong hiện thực tàn khốc của chiến tranh, và nó không chỉ xuất hiện trong thơ Quang Dũng mà còn từng được Chính Hữu và Tố Hữu nói đến:

Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

(Đồng Chí – Chính Hữu)

Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!

(Cá nước – Tố Hữu)

Thế nhưng, chính cái khó khăn của hoàn cảnh, chính sự tác động của ngoại cảnh ấy càng khiến vẻ đẹp của người lính thêm sáng ngời. Họ là đoàn binh ốm nhưng không yếu. Họ đem theo sức mạnh của cả một binh đoàn mà vững vàng tiến bước. Thay vì một cách nói bình thường, Quang Dũng sử dụng cách diễn đạt không mọc tóc vừa mang ý nghĩa phủ định vừa mang hàm nghĩa khẳng định song hành – vừa nói tới việc tóc không thể mọc do bệnh tật vừa như thể hiện sự chủ động của các anh khi lựa chọn dáng vẻ bên ngoài ấy của mình.

Cách đảo trật tự từ như vậy đã truyền tải được chất lính ngang tàn, kiêu hùng, coi thường gian khổ của người lính Tây Tiến. Nhà thơ cũng chọn hình ảnh dữ oai hùm, với “hùm”- chúa tể rừng xanh – để nói về người lính Tây Tiến. Bệnh tật là thế, thiếu thốn là thế nhưng các anh vẫn giữ được thế chủ động, vẻ oai phong lẫm liệt mà tiến bước hành quân, bảo vệ núi non, nước nhà, dân tộc. Sự đối lập trong cách miêu tả của nhà thơ Quang Dũng đã rất thành công làm sáng bừng lên vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến, đồng thời làm cho cái “bi” của hiện thực lan tỏa ra rõ nét cả trước mắt, cả trong lòng người đọc.

Không dừng lại ở đó, Quang Dũng cũng họa lên một bức tranh về người lính với khát vọng chiến đấu, lí tưởng cống hiến cao đẹp: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Mắt trừng là cách nói cực tả khắc họa ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng, khát vọng gửi trong mộng chiến trường cao đẹp của những người trai thời loạn. Gói ghém những khát vọng ấy gửi vào cái mắt trừng như gửi về tương lai tươi đẹp hơn, một tương lai sạch bóng quân thù các anh sẽ trở về. Tại đây, cảm hứng lãng mạn của Quang Dũng đan xen với nét bút tả thực quen thuộc đã tạo nên bức tranh hài hòa mang theo giấc mộng, ý chí, lí tưởng cao đẹp của người lính. Ngay trong tiềm thức, các anh biết mình là ai và biết rất rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình với quê hương dân tộc.

Những người lính Tây Tiến, những chàng trai đất Hà thành, đi theo tiếng gọi của Tổ quốc để chiến đấu và hiến dâng, hành trang họ mang thep không chỉ là vẻ ngoài gân guốc, oai hùm mà còn là một tâm hồn lãng mạn, sự trẻ trung và nhiệt huyết. Rời xa quê nhà để đến với một miền Tây Bắc xa xôi đầy bí ẩn, lạ lẫm, hiểm nguy, họ nhớ, một nỗi nhớ lãng mạn dịu dàng: Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Câu thơ là sự lắng dịu của tâm hồn, là phút giây người lính Tây Tiến nhớ về Hà Nội bên cạnh cái gian khổ của lội suối băng rừng. Bên cạnh tinh thần sục sôi chiến đấu vẫn có một khoảng trời của tâm tư, của cõi mộng. Khác với những người lính có xuất thân từ nơi nước mặn, đồng chua trong thơ Chính Hữu, người lính Tây Tiến trong vần thơ Quang Dũng là những học sinh, sinh viên thủ đô, ra đi với tất cả tuổi trẻ, nhiệt huyết của thanh xuân nên các anh nhớ về Hà Nội, nhớ về dáng kiều thơm. Mơ Hà Nội là nỗi nhớ gửi về mảnh đất đã tiễn bước các anh lên đường, cũng là phần tâm hồn thẳm sâu, là nhịp đập trái tim. Vì nơi ấy, các anh ra đi và đó cũng là nơi chào đón, mong đợi bước chân chiến thắng của các anh trở về.

Ở nơi ấy còn có hình bóng của những thiếu nữ đất Hà Thành, những dáng kiều thơm. Lời thơ mênh mang nỗi nhớ về một Hà Nội thanh lịch và hào hoa với những bóng hình giai nhân thướt tha, yêu kiều. Quang Dũng khắc họa nỗi nhớ ấy của các anh chân thật, nhẹ nhàng. Như vậy, những người lính vừa có một tinh thần thép, một ý chí kiên cường vừa có một trái tim dạt dào cảm xúc. Những anh lính Tây Tiến ra đi mang theo phong thái hào hoa của người trí thức, họ đến Tây Tiến với cả trách nhiệm công dân và bằng cả hành trang sách vở. Cho nên giấc mơ, mộng ước của họ vẫn thơm mùi sách vở học trò, dịu dàng, lãng mạn.

Không chỉ là hào hùng và hào hoa, hình tượng người lính trong Tây Tiến cũng phảng phất bóng dáng của những anh hùng chinh phu, tráng sĩ của văn học thủa trước. Tuy nhiên, đặc biệt hơn, ở họ còn lấp lánh nét hào hoa lãng mạn, lung linh vẻ đẹp phi tráng thấm đẫm chất anh hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Trong hai câu thơ, những từ Hán Việt biên cương, viễn xứ gợi lên một không gian xa xôi, đó là vùng biên giới nước nhà, là con đường hành quân mà người lính đang từng ngày trải qua. Những từ Hán – Việt ấy tạo nên không khí trang trọng để nói về sự hi sinh của các anh. Từ tượng hình rải rác gợi sự thưa thớt, ít ỏi, được đảo lên đầu câu càng nhấn mạnh cái chết đau thương của người lính. Câu thơ tuy nói về sự hi sinh, mất mát nhưng lại chẳng hề bi lụy mà vẫn ngời lên vẻ tráng lệ, mang dáng dấp của tráng sĩ thời xưa trong văn học cổ.

Khi miêu tả về người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không nhấn chìm người đọc vào sự đau thương, bi lụy. Đôi cánh của lí tưởng, đôi cánh của sự lãng mạn đã nâng đỡ. Chính vì vậy, những nấm mồ nằm rải rác nơi rừng hoang, biên giới xa xôi kia như phần nào được dịu vợi đi nỗi đau trước ánh sáng rực rỡ, bỏng cháy của lí tưởng quên mình vì tổ quốc của các anh. Những người lính ấy đối mặt với mồ viễn xứ nhưng sự hi sinh mất mát đó không thể ngăn được ý chí các anh. Dẫu rằng họ biết sẽ hi si, sẽ gian khổ trăm bề nhưng vẫn cứ ra đi, ra đi để đổi lấy độc lập dân tộc, để dành lại hạnh phúc cho quê hương, cho hậu phương thương mến: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Câu thơ vang lên một triết lí sống của tuổi trẻ, giọng thơ mạnh mẽ, dứt khoát, vừa phảng phất chí khí người anh hùng tráng sĩ thủa xưa vừa thể hiện lí tưởng cao đẹp của thời đại Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Những người lính Tây Tiến với tư thế chủ động luôn sẵn sàng ra đi mà không hề do dự, tính toan. Họ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, vì độc lập tự do dan tộc, học chẳng tiếc đời xanh.

Nếu như trong thơ xưa thường mượn hình ảnh mái đầu xanh để nói về tuổi trẻ thì Quang Dũng lại sáng tạo ra hình ảnh đời xanh để lại ấn tượng lớn trong lòng người đọc. Hình ảnh ấy tượng trưng cho tuổi trẻ, tuổi thanh xuân quý giá trong đời người. Đó là những năm tháng đẹp đẽ nhất của mỗi đời người với biết bao hoài bão, dự định cho tương lai. Tố Hữu cũng từng viết:

Hai mươi tuổi, tim đang dào dạt máu
Hai mươi tuổi, hồn quay trong gió bão
Gân đang săn và thớ thịt căng da
Đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa!

Vậy mà người lính ra đi không hề băn khoăn hay do dự đắn đo. Nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng cách nói phủ định chẳng tiếc để khẳng định dứt khoát, quyết liệt tinh thần sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc thân yêu của các anh. Thái độ của người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp, họ coi độc lập tự do của Tổ quốc lớn hơn cả sinh mạng bản thân mình. Quả thực Không gì quý hơn độc lập tự do, không gì cao quý hơn tình yêu Tổ quốc. Điều này khiến ta gợi nhớ về hình ảnh những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa:

Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc sức ra tay bộ hổ

Câu thơ cũng gợi ta nhớ đến những âm vang hào sảng của một thời. Đó là lí tưởng sống đẹp của tuổi trẻ, sẵn sàng hiến dâng tất cả cho quê hương, đất nước:

Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc

(Thanh Thảo)

Những người lính Tây Tiến ra đi với nguyện ước xả thân vì Tổ Quốc, họ coi nhẹ cái chết, hi sinh. Vì thế, người lính Tây Tiến không chỉ hào hùng trong tư thế chiến đấu mà ngay cả khi ngã xuống, họ cũng là ngã xuống trong tư thế hào hùng, vinh quang.

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Nếu người lính khi xưa ra trận có da ngựa bọc thấy, chiếc áo bào ôm xác lúc hi sinh thì ở đây, người lính Tây Tiến với cuộc sống vốn thiếu thốn đủ bề. Vậy nên khi nằm xuống, có khi họ không có lấy cả tấm chiếu bọc thân. Đồng đội đành đưa họ về đất mẹ với tấm áo lính đã bạc màu sương gió, chiếc áo đã từng thấm đẫm mồ hôi và giờ đây thấm đẫm cả máu các anh và nước mắt đồng đội. Đây là sự bi thương của người lính Tây Tiến nói riêng, người lính trong kháng chiến hống Pháp nói chung. Viết về sự ra đi ấy cũng đã có nhiều câu thơ đau lfng, xót xa:

Ở đây không gỗ ván
Niệm anh bằng tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán

(Viếng bạn – Hoàng Lộc)

Thế nhưng, qua ngòi bút của Quang Dũng, nó đã trở thành tấm chiến bào sang trọng, bọc lấy thi thể người đã khuất. Điều đó gợi lên sắc thái cổ kính, sang trọng trước sự hi sinh, đồng thời làm nhẹ đi sự đau thương của hiện thực tàn nhẫn.

Bằng cách nói giảm nói tránh anh về đất, nhà thơ như xoa dịu nỗi đau thương, mất mát trước sự ra đi của các anh, đồng thời cũng khẳng định sự bất tử của người lính đã hi sinh. Linh hồn họ được về với đất mẹ và trường tồn mãi với núi sông. Đất mẹ mở rộng vòng tay đón lấy anh khi anh hoàn thành trọn vẹn nghĩa vụ với núi sông, bờ cõi nước nhà. Đó không còn đơn thuần là cái chết mà nó trở thành sự hóa thân vào đất nước của các anh. Tinh thần tự nguyện hiến dâng tuổi xuân cho Tổ quốc, sự hi sinh thầm lặng nhưng vĩ đại đã làm nên chất sử thi hùng tráng cho thi phẩm và dựng lên một tượng đài bất tử về người chiến sĩ.

Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt dặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước

(Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm)

Trên hành trình vào cõi bất tử, bên những người lính ấy có dòng sông Mã mang nặng nghĩa tình, tấu lên khúc nhạc bi hùng đưa tiễn họ:

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Sự mất mát, hi sinh đó không chỉ để lại sự tiếc thương cho những con người còn sống mà còn như khiến cho cả thiên nhiên đất trời muôn phần xót xa. Câu thơ như mang linh hồn của núi rừng Tây Bắc để tiễn biệt các anh. Dòng sông Mã ấy gắn bó, kề bên từ khi các anh hành quân cho đến khi các anh chiến đấu và ngã xuống, dòng sông ấy đã chứng kiến tất cả vui buồn, kỉ niệm thân thương, để rồi giờ đây nó như tấu lên mãi khúc nhạc trầm, hùng để tiễn đưa linh hồn các anh về cõi vĩnh hằng bất tử, về với đất mẹ nghĩa tình. Khúc gầm ấy như chứa đựng nỗi xót xa của cả những người đồng đội, những người ở hậu phương và là cả sự đau thương, mất mát của núi rừng, Tổ quốc.

  • Kết bài:

Khổ thơ khép lại, người lính Tây Tiến ra đi trong dư vang gầm thét của dòng sông Mã, tiếng gầm thét ấy sẽ mãi ngân vang thấm sâu vào lòng của người đọc. Như vậy, với bút pháp lãng mạn và hiện thực đan xen nhuần nhuyễn, linh hoạt, hài hòa cùng thể thơ bảy chữ, ngôn ngữ tài hoa giàu liên tưởng…, Quang Dũng đã xây dựng thành công một tượng đài bất tử bằng thơ về hình tượng người lính Tây Tiến nói riêng và người lính trong kháng chiến chống Pháp nói chung. Những người lính ấy hiện lên với vẻ đẹp vừa hào hùng, vừa hào hoa, vừa lãng mạn vừa bi tráng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, để rồi đã qua gần bảy thập kỉ mà bài thơ vẫn luôn là tác phẩm thơ tiêu biểu cho giai đoạn kháng chiến chống Pháp của nền văn học dân tộc. Quả thực Tây Tiến là tượng đài bất tử của người lính vô danh.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang